Nằm trong khu Chek Lap Kok trên đảo Lantau, Sân bay Quốc tế Hong Kong (hay Sân bay Chek Lap Kok) là một sân bay dân dụng và là một trong những sân bay to nhất châu Á cũng như cả thế giới. Phải mất 6 năm sân bay mới được xây dựng xong, vào năm năm 1998 sân bay đã được khánh thành. Chuyến bay CX889 của hãng hàng không Cathay Pacific là chuyến bay thương mại đầu tiên đáp xuống sân bay lúc 06:25. Sân bay Quốc tế Hong Kong được xây trên một hòn đảo nhân tạo lớn, qua việc san lấp nối liền hai đảo là Chek Lap Kok và Lam Chau. Hai đảo ban đầu chiếm khoảng 25% diện tích sân bay hiện tại (12.55 km²). Nó nối liền với mặt phía bắc của đảo Lantau (giữa đảo) gần làng Tung Chung, hiện giờ đã được mở rộng thành khu phố mới. Lượng đất san lấp khiến cho sân bay tăng thêm diện tích khoảng 1%. Sân bay này thay thế sân bay cũ là Sân bay Kai Tak, tọa lạc tại khu vực thành phố Kowloon với một đường băng thuộc vịnh Kowloon gần với khu vực nội ô. Sân bay này được điều hành bởi Cơ quan Sân bay Hong Kong và là trung tâm chính của Cathay Pacific Airways, Cathay Dragon, Hong Kong Express Airways, Hong Kong Airlines, và Air Hong Kong (hàng hoá). Bên cạnh đó, HKIA cũng điều hành một ga hành khách lớn nhất. Sân bay Quốc tế Hong Kong có hai ga hành khách tiện nghi, các tiện ích có tại hai nhà ga này là truy cập internet, kết nối Wi-fi miễn phí, ngân hàng, ATM, đổi tiền, điện thoại trả tiền, khu vui chơi của trẻ em, salon tóc và salon làm đẹp, dịch vụ mat-xa, môi trường... Từ Ga 1 hoặc Ga 2, hành khách có thể tiếp cận trực tiếp đến những đường dẫn vận chuyển khác nhau như tàu điện tốc hành sân bay, xe buýt được phép, xe thùng khách sạn và xe oto riêng... Số lượng cửa lên máy bay và cửa ra máy bay là 70 cửa và 63 cửa, trong đó có 5 cửa có thể dùng Airbus A380, Singapore Airlines A380. 40 triệu lượt hành khách là số lượng thông qua sân bay Hong Kong và 3 triệu tấn hàng hóa vào năm 2005 cùng 210.112 đợt cất/hạ cánh. Sân bay Quốc tế Hong Kong được thiết kế rộng rãi, hiện đại với nhiều dịch vụ tiện ích hấp dẫn phục vụ khách du lịch đi tham quan, đi công tác. Không chỉ tiện nghi, sân bay này còn là thiên đường mua sắm, ăn uống. Dịch vụ đón tiễn Dịch vụ đón tiễn là dịch vụ tại Sân bay Quốc tế Hong Kong hiện nay được nhiều đơn vị đã và đang cung cấp, nhiều du khách đã chọn lựa đặt tour trọn gói để có thể sử dụng xe đón tiễn của những đơn vị đó. Ngoài ra quý khách cũng có thể sử dụng những dịch vụ tiện ích đón tiễn ngay tại sân bay như: Airport express, taxi, xe bus, tàu điện để di chuyển về trung tâm hay khách sạn mà mình mong muốn. Dịch vụ mua sắm miễn thuế Sân bay Quốc tế Hong Kong được bình chọn là thiên đường mua sắm số 1 thế giới cung cấp những dịch vụ tiện ích tại sân bay hấp dẫn nhất. Nếu muốn mua những sản phẩm thời trang từ những nhà thiết kế, phụ kiện, giỏ xách, rượu, thuốc lá miễn thuế, mỹ phẩm, đồng hồ, kiếng thời trang, nữ trang thì du khách hãy đến Terminal 1. Khu vực này còn có nhiều cửa hàng bán đồ điện tử, sách báo, mỹ nghệ, thời trang thể thao, đồ chơi trẻ em và cả lingerie đồ ngủ dành cho phụ nữ. Ở sân bay Quốc tế Hong Kong những mặt hàng không bị đánh thuế giá trị gia tăng, cùng với những chương trình khuyến mãi theo mùa khiến cho hàng hóa tại sân bay Hong Kong luôn vô cùng hấp dẫn đối với du khách. Dịch vụ tiện ích khác Dịch vụ tiện ích khác tại Sân bay Quốc tế Hong Kong mà du khách có thể chọn lựa trong số những dịch vụ tại sân bay Hong Kong nhằm phục vụ cho việc thư giãn và giải trí sau chuyến bay được kể đến như: - Rạp chiếu phim 4D hoành tráng và những màn hoạt cảnh không tưởng tại trung tâm Aviation Discovery - Khu vực chơi Playstation - Sân golf Sky City Nine Eagles Ngày nay khi đặt vé máy bay Trung Quốc du lịch Hong Kong bạn có thể dễ dàng đặt chân đến sân bay Hong Kong khi đặt vé từ cả 3 sân bay quốc tế của Việt Nam là sân bay Nội Bài, sân bay Đà Nẵng, sân bay Tân Sơn Nhất.
0 Comments
Du ngoạn Giang Nam ghé thăm Chùa Trùng Nguyên tại Tô Châu, ban đầu chùa có tên là Trùng Huyền Tự, khai sơn vào năm Thiên Giám thứ II (503) đời vua Lương Võ Đế, đồng thời với những ngôi chùa ở Tô Châu như chùa Hàn Sơn, chùa Linh Nham, chùa Bảo Thánh. Dưới sự phát tâm độ trì Phật pháp của vua Lương Võ Đế, Phật Pháp hưng thạnh, chùa chiền được xây dựng khắp nơi, lúc này tại Trường Châu có vị quan tên là Lục Tăng Tán, nhân thấy mây lành hợp thành mấy lớp phủ kín trên mái nhà mình, nên phát tâm cúng dường nhà của mình để làm chùa thờ Phật, đặt tên là Trùng Vân Tự. Vua Lương Võ Đế nghe được việc này rất lấy làm vui bèn ban cho bảng hiệu "Đại Lương Quảng Đức Trùng Huyền Tự"; từ đó chùa được gọi là Trùng Huyền Tự. Đến đời nhà Đường niên hiệu Hội Xương thứ 2 (842) Phật Giáo gặp phải pháp nạn diệt Phật từ vua Đường Vũ Tông. Chùa Trùng Huyền bị phá hủy sau khi pháp nạn đã qua, chư tăng tái kiến lại chùa ở trấn Duy Đình cách thành Tô Châu khoảng 30 dặm và đặt tên cho ngôi chùa mới xây dựng lại là Trùng Nguyên. Đến thời Ngũ Đại vua nước Ngô Việt (908-932) đại trùng tu chùa Trùng Nguyên, trở thành một trong những ngôi chùa to lớn tráng lệ nhất trong thiên hạ, đến đời nhà Tống vào khoảng niên hiệu Tuyên Hòa (1119-1125) chùa được đổi tên thành Thừa Thiên, sau đó lại đổi thành chùa Năng Nhơn. Đến thời nhà Nguyên niên hiệu Thuận Thiên (1330-1333) chùa bị hỏa hoạn phá hủy hoàn toàn, đến niên hiệu Chí Thuận (1341-1368) được Hòa Thượng Duyệt Nam Sở xây dựng lại, toàn bộ kiến trúc cũng như quy mô của chùa được phục dựng lại như xưa. Đến đời vua Khang Hy nhà Thanh vì kỵ tên húy của vua là "Huyền" nên chùa được gọi là Trùng Nguyên cho đến ngày nay. Đến thời hiện đại chùa bị phá hủy hoàn toàn vào thập niên 70 trong cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc, đến năm 2003 được trùng tu xây dựng lại, phục hưng lại diện mạo của tổ đình, tái kiến đại tòng lâm phạm vũ. Chùa Trùng Nguyên được xây dựng lại trên diện tích 300 mẫu, điện đường to lớn trang nghiêm hùng vĩ, chùa nằm trên vùng đất bán đảo rất đẹp bên cạnh hồ Dương Trừng, giữa hồ lại có một hòn đảo nhỏ, trên đảo cất một tòa Quán Âm Các cùng với chùa Trùng Nguyên hợp thành Liên Hoa Phật Quốc, Quán Âm Đạo Tràng, vạn Phật trang nghiêm tạo nên một cách vô cùng độc đáo. Chùa Trùng Nguyên được trùng hưng miêu tả sự thành tựu đạo tràng của chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, sự cụ túc của Tam Bảo nói lên Phật Pháp hưng long, Tam Bảo trường tồn. Vào chùa Trùng Nguyên trước tiên du khách phải đi qua con đường dài 200m được gọi là Lễ Phật Đại Đạo, hai bên đường có khắc những bức phù điêu bằng đá biểu hiện 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, trên đường lễ Phật còn có bảy hoa sen kỳ nguyện, trên sáu cây đầu phù điêu triển hiện 6 pháp, gọi là Lục Độ pháp môn tu hành Bồ Tát Đạo của Phật Giáo, cây trụ thứ bảy phù điêu cách lễ Phật đây là nét độc đáo của kiến trúc chùa Trùng Nguyên. Cổng Tam Quan của chùa được đặt tại cuối đường Lễ Phật Đại Đạo, xây dựng theo kiến trúc cổng thành cổ, trên cổng treo tấm biển có đề ba chữ đại tự Trùng Nguyên Tự do Triệu Phát Sơ viết, hai bên có hai biển đề Giang Nam Đại Quan và Tiêu Lương Di Tích, hai bên cổng chùa còn có hai thạch Kinh Tràng khắc chú Tôn Thắng và Chú Đại Bi. Thiên Vương Điện của chùa được tôn trí Đức Phật Di Lặc và bốn vị Thiên Vương, sau lưng Phật Di Lặc là tượng Đức Hộ Pháp. Hai bên Điện Thiên Vương là hai lầu chuông trống, trên lầu trống treo một chiếc trống lớn với đường kính 2m19, xưng là trống to nhất Trung Quốc, lầu chung treo đại hồng chung nặng 12 tấn. Phóng Sanh Trì nằm phía sau Điện Thiên Vương với ba cây cầu bắc ngang qua ao được đặt tên là cầu Năng Nhân, cầu Trí Huệ, cầu Phước Đức, qua khỏi ba cây cầu là đến quảng trường trước đại điện, hai bên có Điện Văn Thù và Điện Phổ Hiền, Đại Hùng Bảo Điện tại vị trí trung tâm - đây là kiến trúc chính của chùa Trùng Nguyên, được cất trên một đài làm bằng đá rất cao, toàn thể đại điện cao 36m là một trong những đại điện lớn nhất Trung Quốc. Trong đại điện tôn trí 3 tôn tượng Tam Thế Phật, vách sau lưng tượng Tam Thế là phù điêu Nam Hải Quán Âm, thể hiện tích Thiện Tài Đồng Tử Tam Thập Tam Tham, hai bên tôn trí tượng Thập Bát La Hán. Điện thờ Bồ Tát Địa Tạng và Bồ Tát Hư Không Tạng được làm hai bên của Đại Điện. Cầu Phổ Tế đi qua những thờ Quán Âm Bồ Tát dài 19 nhịp, trước cầu Phổ Tế có cổng bi phường trên đề bốn chữ Thủy Thiên Phật Quốc, qua cầu đến Quán Âm Các tại đảo nhỏ giữa hồ, các có chiều cao là 46m, bên trong tôn trí tượng Bồ Tát Quán Âm bằng đồng thếp vàng cao 33m, nặng 80 tấn, đây là tượng Quán Âm được thờ trong các cao nhất Trung Quốc, quanh tượng Bồ Tát lớn còn tôn trí 9999 tượng Bồ Tát Quán Âm cũng làm bằng đồng cao hơn 3 tấc. Trong chùa còn có những Thiền phòng và Trai đường để thuận tiện cho du khách hành hương đến tham quan lễ Phật có thể an trú, nhà lưu thông những pháp vật Phật Giáo cũng như Kinh sách. Chùa Trùng Nguyên là một công trình vĩ đại của Phật Giáo Trung Quốc, nơi thể hiện phong cách kiến trúc truyền thống của tự viện Trung Quốc đương đại, là một trong những danh thắng lừng danh hàng đầu của miền Giang Nam, nơi mà du khách nên ghé thăm khi có cơ hội mua vé máy bay nội địa Trung Quốc du lịch. Hòa Thân lúc sinh thời từng là sủng thần của Hoàng Đế Càn Long, là một tham quan nức tiếng và một tay chơi có hạng. Ông từng nổi danh với tuyên ngôn: “Thứ gì mà Hoàng Thượng có, ta cũng có, thứ gì Hoàng Thượng không có, ta cũng phải có”, câu nói nghe có vẻ phô trương nhưng thực tế nó không ngoa chút nào! Sự giàu có xa hoa của Hòa Thân còn “vượt mặt” cả bậc Quân Vương lúc bấy giờ, sử sách ghi lại số gia sản của Hòa Thân mà sau này bị vua Gia Khánh tịch thu tương đương số tiền mà quốc khố nhà Thanh phải mất 15 năm mới thu được. Vẫn biết Hòa Thân giàu là như vậy nhưng phải đến khi tận mắt ngắm nhìn Vương Phủ của ông người ta mới cảm nhận được hết độ xa hoa và phô trương của vị quan này. Phủ Hòa Thân còn có một tên gọi khác là Cung Vương Phủ nằm tại phố Liễu Ấm, quận Tây Thành Bắc Kinh, đây là một trong những Vương Phủ thời nhà Thanh được bảo tồn hoàn hảo nhất của Trung Quốc. Vào thời đại nhà Thanh, công trình Viên Minh Viên được ví như đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc với quy mô to lớn, thiết kế tinh xảo, kỹ thuật xây dựng vô cùng công phu, thậm chí còn được ví như kỳ quan. Hòa Thân cũng muốn xây dựng nên phủ đệ của mình như vậy, nhưng lại sợ người đời gièm pha nên chỉ có thể bắt chước mô phỏng cổng Tây Dương của Viên Minh Viên trong phủ đệ. Tương truyền rằng cửa này thiết kế hệt như cửa Viên Minh Viên, chỉ sửa lại một chút tỷ lệ để tránh hiềm nghi. Trải qua nhiều binh biến loạn lạc, Viên Minh Viên đã bị liên quân tám nước phá hủy khi đánh vào kinh thành. May mắn thay, tác phẩm kiến trúc trong phủ Hòa Thân vẫn còn nguyên trạng và được hậu thế xem như "quốc bảo". Bước chân vào khám phá Cung Vương Phủ của Hòa Thân du khách chắc chắn sẽ choáng ngợp bởi tổng diện tích lên đến 60.000m2, hồ nước rộng lớn, khắp khuôn viên phủ đầy bóng cây mát rượi và nhiều loài hoa thơm ngát. Trong phủ gồm phủ đệ, hoa viên, 2 bộ phận hợp thành. Năm 1982 Cung Vương Phủ được liệt vào danh sách bảo hộ trung tâm của quốc gia. Phủ được bố trí theo kiểu "Tam Lộ Ngũ Tiến", kiến trúc tinh xảo mà rộng lớn. Kiến trúc ở trục chính sử dụng ngói lưu ly xanh, mô phỏng kiến trúc dành cho Phủ Đệ của Thân Vương. Chính vì lối sống xa hoa nên Hòa Thân cũng dồn rất nhiều công sức sửa chữa tái tạo phủ. Hoa viên còn được gọi là Tụy Cẩm Viên, bố cục tổng thể 3 mặt giáp giả sơn với hơn 50 Cảnh Điểm phân bố 3 trục Đông, Tây, Trung. Vương Phủ theo vòng quay của thời gian lưu giữ hết những tinh túy và cao quý của văn hóa Vương phủ đời Thanh. Có câu "Một tòa Cung Vương Phủ, nửa bộ sử Thanh triều" cũng đủ nói lên giá trị văn hóa của phủ. Ngoài phủ đệ và hoa viên, Hòa Thân còn cho xây dựng một tòa lầu lớn sơn son trên núi nhân tạo để ngắm trăng, ngâm thơ, đọc sách. Để đến được tòa lầu này du khách sẽ phải băng qua một hành lang dài với những chiếc cột được trang trí hoa văn tỉ mỉ, lối đi này tương đối dốc, không có bậc thể hiện con đường thăng quan tiến chức luôn hanh thông của Hòa Thân. Chưa dừng lại ở đó khi đi sâu hơn vào Phủ Hòa Thân du khách sẽ bắt gặp hai ngọn núi nhân tạo mà ông cho xây dựng, phía trong mỗi ngọn núi ông cho đặt một vật trấn trạch. Vật trấn trạch đầu tiên là một con tỳ hưu rất lớn được tạc bằng ngọc phỉ thúy xanh vô cùng quý hiếm, đến Hoàng Đế Càn Long thời bấy giờ cũng chỉ có một con tỳ hưu nhỏ hơn và được làm từ bạch ngọc. Vật trấn trạch thứ hai là tấm bia chữ “Phúc” do chính vua Khang Hy ngự bút bị Hòa Thân chiếm làm của riêng. Khang Hy vốn là một bậc thầy về thư pháp nhưng rất ít khi đề chữ, năm xưa có lần Hiếu Trang thái hoàng thái hậu bệnh nặng, có người hiến kế cho Hoàng đế lập đàn cầu phúc. Khang Hy cho làm theo cách này, trai giới 3 ngày, sau đó ngự bút viết một chữ Phúc, chữ này sau đó được tạo tác lên bia đá. Nhờ phương pháp cổ đấy Hiếu Trang quả nhiên khỏi bệnh, thậm chí tuổi thọ sau này còn dài hơn so với Khang Hy, chữ Phúc trên tấm bia kia cũng được coi là "đệ nhất thiên hạ". Sau này không rõ nhờ cách nào mà Hòa Thân đem được tấm bia quý giá ấy về biệt phủ của mình, để giữ làm của riêng Hòa Thân đã đem nó đặt vào một hang động bí mật nằm ngay trên long mạch của Đại Thanh. Cho tới khi Gia Khánh lên ngôi, phủ Hòa Thân bị điều tra thì tấm bia kia mới được phát hiện. Nhưng nhà vua cũng không dám thu hồi chỉ có thể niêm phong cửa động không cho ai bén mảng tới. Sau này những chuyên gia được phái tới phủ Hòa Thân tiến hành tu sửa và bất ngờ phát hiện ra cửa động thì tấm bia đề chữ Phúc kia mới một lần nữa có cơ hội được thấy ánh mặt trời. Có giai thoại còn truyền lại rằng Hòa Thân năm xưa sở dĩ có bình an vô sự, vơ vét của cải suốt một thời gian dài là nhờ vào tấm bia "có phúc" ấy. Dưới thời nhà Thanh khoa học kỹ thuật chưa phát triển, nghệ thuật dân gian vẫn chiếm ưu thế. Khi đó dù là hoàng gia hay trăm họ thì phương thức tiêu khiển chủ yếu vẫn là xem hí kịch. Vốn là người yêu thích hí kịch, Hòa Thân đã thiết kế một sân khấu riêng để nghe hát ngay trong phủ của mình. Sân khấu trong phủ họ Hòa không chỉ có quy mô lớn, bài trí trang trọng, mà còn đặc biệt thiết kế 8 chậu nước lớn chôn ở phía dưới để tiếng hát của diễn viên được vang và trong hơn, sân khấu nghe hí kịch của Hòa Thân có thể coi là thiết kế độc nhất vô nhị thời bấy giờ, thậm chí so với sân khấu trong Cố cung còn lớn hơn. Tuy Cung Vương Phủ của Hòa Thân giờ đây đã tương đối khác so với những gì tồn tại trước đó nhưng nó vẫn là phủ quan được bảo tồn nguyên vẹn hàng đầu tại Trung Quốc và được nhiều du khách yêu thích và tim kiếm thông tin tiền vé máy bay sang Trung Quốc đến Bắc Kinh du lịch để ghé thăm nơi này Tại Trung Quốc và nhiều nước Á Đông đã từng có một thời phong kiến phát triển thì danh tiếng của Bao Chửng - Bao Thanh Thiên được nhiều người biết đến, đó là vị quan thanh liêm, vì nước vì dân. Ông tên thật là Bao Chửng (999 - 1062), tự Hy Nhân, ngoài ra ông còn được gọi bằng những tên khác như Bao Thanh Thiên, Bao Thị Chế, Bao Hắc Tử, Bao học sĩ hay Bao Long Đồ. Ông nổi tiếng là một vị quan “thanh liêm, chấp pháp nghiêm minh, không khiếp sợ uy quyền hay vị nể tư tình” dưới thời Hoàng đế Tống Nhân Tông (1022 - 1063). Trong suốt thời gian làm quan ông đã phá được nhiều vụ án, giúp dân cư an hưởng thái bình, nền kinh tế nhờ đó mà phát triển vượt bậc. Nghe tiếng Bao Công tận tụy và thanh liêm, nhà vua triệu ông về kinh giao cho chức Trung thừa, rồi lần lượt là Giám sát ngự sử, Trực học sĩ Long đồ các, Tam tư Hộ bộ Phó sử, đến Thiên Chương các Thị chế (nên nhân gian sau này còn gọi ông là Bao Thị Chế). Thực tế mặt Bao Công không hề đen và cũng không có vầng trăng trên trán, tạo hình Bao Công mà du khách nhìn thấy trên phim ảnh là kết quả do bị tác động từ Kinh Kịch, hát bội. Trong nghệ thuật Kinh Kịch những diễn viên thường phải hóa trang mặt nạ trước lúc biểu diễn, mặt trắng là đại diện cho kẻ tiểu nhân; mặt đỏ là đại diện cho nghĩa khí, trung nghĩa; mặt đen đại diện cho nghiêm túc, công chính liêm minh, quân tử. Do đó mặt Bao Công được tô đen để khắc họa bản tính liêm chính của ông. Ông là một người cương trực đã xử trảm con rể của vua theo pháp luật, ông cũng chẳng mưu cầu việc riêng tư mà xử tử người cháu ruột của mình vì phạm pháp. Nếu như du khách muốn biết về Bao Công và nơi mà ông đã từng xử án cũng như tấm lòng ngưỡng mộ, cung kính của người dân Trung Quốc đối với ông thì hãy ghé thăm phủ Khai Phong nổi tiếng tại Trung Quốc để cảm nhận một cách gần hơn những gì đã từng diễn ra tại đây vào hơn 1.000 năm trước. Phủ Khai Phong nằm tại thành phố cùng tên của tỉnh Hà Nam cách Bắc Kinh 808km, Khai Phong phủ ngày nay mà du khách tham quan chỉ là một công trình phục dựng ngay vị trí nền cũ ngày xưa. Công trình này hoàn thành vào năm 2003 sau 15 tháng thi công dựa trên một cuốn sách cổ miêu tả về những kiến trúc Bắc Tống. Đến năm 2007 Khai Phong phủ nhận được giải Lỗ Ban - giải thưởng cho công trình phục cổ đẹp nhất Trung Hoa. Nơi đây rộng 60 hecta gồm nhiều sân bãi, thành lầu, nha môn, nơi làm việc, nơi nghỉ ngơi, nhà khách, nhà lao… Phía ngoài phủ người ta đặt một chiếc trống to vốn dành cho dân chúng đánh trống kêu oan; bên trong nha môn là nơi xét xử những vụ án với “Cẩu đầu trảm”, “Hổ đầu trảm” và “Long đầu trảm” nổi tiếng. Phía sau của khu công đường xử án là nơi tiếp khách, phòng làm việc của những vị quan cấp dưới giúp việc cho Phủ doãn Phủ Khai Phong. Tiếp tới là khuôn viên, sân vườn, phía sau nữa là nhà nghỉ, nhà ở của quan lại, bộ đầu, binh lính… Cuối dãy còn có nhà giam để giam giữ phạm nhân chờ ngày xét xử, hành hình. Nhà lao được chia làm 2 khu, khu nam và khu nữ; bên ngoài nhà lao còn giữ lại gông đeo cổ, xe tù…để cho du khách thấy được toàn bộ cách làm việc, sinh hoạt, xét xử, giam giữ phạm nhân của một Khai Phong Phủ ngày xưa. Một điều thú vị là lúc dạo quanh Phủ Khai Phong du khách sẽ bắt gặp rất nhiều thứ liên quan đến Bao Công, ví dụ như hồ nước gọi là hồ Bao Công, cá dưới hồ là cá Bao Công, kẹo đậu phộng cũng gọi là kẹo Bao Công… Khoảng sân trước phòng xử án có đặt một bia đá lớn gọi là Công sinh minh, tất cả những phủ quan lại thời Bắc Tống đều phải có bia đá này. Trên bia khắc 16 chữ răn dạy của vua với những vị quan: “Nhĩ bổng nhĩ lộc - Dân cao dân chi - Hạ dân di nhược - Thượng thiên nan khi”, đại ý: “Bổng lộc của quan là máu thịt của dân, dân chúng dễ dàng bị bức hiếp nhưng trời cao thì không dễ”. Đến thăm Khai Phong phủ bên cạnh việc tham quan những công trình kiến trúc và tìm hiểu lịch sử, du khách còn bị cuốn hút bởi rất nhiều hoạt động hấp dẫn nơi đây. Bên hồ nước có những chương trình biểu diễn xiếc và ảo thuật hấp dẫn, các tòa lầu trong phủ là nơi tổ chức những hoạt cảnh, những trò chơi tái hiện cuộc sống thời xưa như cảnh thi đỗ trạng nguyên, cảnh gieo tú cầu, cảnh đám cưới… Không chỉ có vậy, du khách còn được xem những vở kịch tái hiện cảnh Bao Công xử án. Mỗi ngày tại Khai Phong Phủ đều có dàn diễn viên biểu diễn lại cảnh tượng Bao Công đi tuần với kiệu, người, đánh trống, đánh chiêng…Sau nghi lễ Bao Công đi tuần về phủ Khai Phong, Phủ Khai Phong chính thức mở cửa cho du khách vào tham quan. Sau khi tham quan Khai Phong phủ xong du khách nên ngủ lại thành phố Khai Phong một đêm để có thời gian đi dạo chợ đêm - một trải nghiệm vô cùng thú vị dành cho du khách khi đến đây. Đêm xuống khu phố trung tâm Khai Phong rực rỡ ánh đèn lồng, những quầy hàng đủ màu sắc chen chúc bày bán hai bên đường, đủ mọi chủng loại từ đồ ăn thức uống cho tới quần áo, đồ lưu niệm… Đặc biệt thành phố Khai Phong còn tổ chức cho nhiều đoàn người mặc trang phục theo kiểu cổ, đi vào chợ đêm, trình diễn những hoạt cảnh để thu hút khách du lịch. Bạn có thể tham khảo thông tin Giá vé máy bay đi Trung Quốc tại đây nếu như muốn ghé thăm Phủ Khai Phong trong hành trình du lịch của mình. Vạn Lý Trường Thành vốn là công trình nổi tiếng hàng đầu tại Trung Quốc được xây bằng đất và đá của thế kỷ thứ 5 TCN đến thế kỷ 16 SCN để bảo vệ khỏi những cuộc tấn công của người Mông Cổ, Hung Nô, hay những bộ tộc du mục khác. Tuy nhiên đây lại không phải bức tường thành duy nhất tại quốc gia này. Bức tường thành được coi là Vạn Lý Trường Thành thứ 2 nằm tại thành phố Nam Kinh, tây bắc Thượng Hải, địa điểm bên bờ sông Dương Tử. Công trình cũng đóng một vai trò quan trọng, là một trong những di tích lịch sử văn hóa quan trọng của triều đại nhà Minh, đồng thời là kiệt tác của kiến trúc cổ xưa Trung Hoa. Sau khi thành lập vào triều đại nhà Minh (1368-1644) và lập Nam Kinh là thủ đô, để củng cố chủ quyền tránh kẻ xâm lược, Hoàng đế Chu Nguyên Chương cùng cố vấn Zhu Sheng đã cho xây bức tường thành trong suốt 21 năm. Sử sách ghi lại, hơn 200.000 người được huy động từ khắp những tỉnh thành lân cận tới xây thành, vận chuyển gần 7.000.000 m3 đất. Ước tính bức tường thành này sử dụng tới 350.000.000 viên gạch, mỗi viên nặng 2,7 kg. Đặc biệt mỗi viên gạch đều ghi lại những thông tin như nơi chế tác, viên quan chịu trách nhiệm, hay người thợ làm ra chúng. Nhờ đó hơn 300.000.000 viên gạch đắp Tường thành Nam Kinh trở thành bộ tài liệu lịch sử về xây dựng lớn nhất thế giới. Chúng gắn kết bằng một hỗn hợp đông đặc gồm vôi, nước gạo, dầu tùng và những nguyên liệu khác. Tường cao từ 14-20m, rộng 14m, trên đỉnh có 13.616 lỗ châu mai phòng thủ trong trường hợp gặp nguy hiểm. Bức tường thành quây tròn dài nhất thế giới này bao bọc một vùng rộng hơn 5.400 hecta nội đô Nam Kinh, bức tường ban đầu dài gần 35 km; ngày nay còn sót lại gần 21 km. Tường thành Nam Kinh được xây dựng theo phong cách thống kết hợp khung cảnh non nước tự nhiên của thành phố, nằm tại bờ phía nam của sông Dương Tử với lượng mưa dồi dào, đồi núi và sông uốn lượn là nhiệm vụ khó để thực hiện dự án lớn. Tuy nhiên người Trung Quốc cổ đại đã chinh phục tất cả, thể hiện kỹ năng và sử dụng vật liệu thích hợp với địa hình. Vạn Lý Trường Thành tại Nam Kinh được chia thành 4 phần, được quây tròn bao bọc vùng đất rộng lớn quanh nội đô. Trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng công trình vẫn đứng vững cùng tuế nguyệt, chứng tỏ trình độ đỉnh cao xây dựng và kiến trúc của người Trung Quốc xưa. Bức tường còn lại ngày nay du khách có thể chiêm ngưỡng chủ yếu là di tích của nội thành. Nam Kinh hiện là một trong số ít những thành phố tại Trung Quốc vẫn còn lưu giữ khá nguyên vẹn những bức tường thành cổ, có giá trị lớn về mặt lịch sử văn hóa. Ngày nay du khách tới Nam Kinh có thể tham quan bức tường thành cổ tại 6 phần mở cửa cho công chúng: 6km từ Trung Hoa Môn tới An Môn, 2km từ cổng Zhong Shan tới đường Đông Guanghua, 6km từ Đông Thuỷ Quan đến Tây Thuỷ Quan, 1km từ núi Qing Ling đến Vườn Quốc phòng, 4 km từ cổng Ding Huai đến núi Sư Tử, và 2km từ đường Zhong Fu đến cổng Zhong Fang. Trung Hoa Môn là cổng phía nam, nằm tại phía bắc sông Tần Hoài với dấu tích còn lại của ba cung điện lớn liền kề, khu vực phía đông của bức tường bao quanh Đông Thuỷ Quan đã trở thành một công viên lớn. Vũ Môn là trạm cuối trên đường đi dành riêng cho hoàng đế Minh triều, dẫn vào cung tại phía bắc Đông Thuỷ Quan. Ngày nay một không gian xanh được mở ra trên nền cung điện cổ, với một cổng chào, hào nước, tàn tích của đàn tế trời, và một bức tường đá với tranh điêu khắc từ những loài sinh vật huyền thoại từ đời Minh. Công viên giờ đây ngập tràn sức sống với những môn sinh Thái Cực Quyền luyện tập mỗi ngày. Tiếp tục đi ngược chiều kim đồng hồ dọc theo lối đi trên tường thành, cổng Taicheng mang đến một tầm nhìn bao la mênh mông về một phía hồ Huyền Vũ tại trung tâm thành phố, phía bên kia là một ngôi đền cổ xưa đứng kế tòa tháp chọc trời Zifeng. Tại điểm cực bắc của tường thành là cửa ngõ được hoàn thiện nhất: An Môn. Nằm ngay phía bắc của hồ Huyền Vũ, pháo đài này là một khu vực quân sự được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự tò mò của công chúng trong hơn bảy thập kỷ qua, đây cũng là cánh cổng duy nhất có tháp canh. Tường thành Nam Kinh là một trong những điểm đến không thể nào bỏ qua trong hành trình du lịch Trung Quốc để có thể thỏa ước mong lưu lại dấu chân của mình trên lối đi của kỳ quan cổ đại này. Đặt vé máy bay đi Nam Kinh Trung Quốc đến thăm nơi đây du khách như lắng nghe được tiếng vọng lịch sử về một thời vàng son của nền phong kiến Trung Hoa xưa - một giai đoạn với sức mạnh và tầm ảnh hưởng lớn,thể hiện qua công trình vĩ đại có một không hai của thế giới. Bảo tàng Hàng hải Macau Bảo tàng Hàng hải Macau nằm gần đền Mage Mage Street, được ra đời và mở cửa cho công chúng vào năm 1990 và là một bảo tàng chuyên ngành tập trung vào những mối quan hệ hàng hải. Đây là điểm giao thương chính trong khu vực và là một phần không thể nào tách rời của lịch sử thành phố. Bảo tàng có hình dạng giống như một con tàu nằm tại chùa Barra, nơi người Bồ Đào Nha đầu tiên tới đây. Bảo tàng hiện sở hữu khoảng 2.000 bộ sưu tập với những chủ đề như ngành công nghiệp đánh bắt cá, công nghệ, vận tải của Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Trong bảo tàng, người ta trưng bày giới thiệu những tàu thuyền khi Bồ Đào Nha tới Macau, cũng như những tàu Trung Quốc. |
|