Tu viện Tashilhunpo có tổng diện tích gần 300.000m2, đứng ở lối vào tu viện Tashilhunpo du khách có thể Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tu viện Tashilhunpo với các tòa nhà uy nghi với mái vàng và tường trắng. Kiến trúc chính ở tu viện Tashilhunpo gồm: Tháp thờ Đức Phật Di Lặc (Jamba Chyenmu), hội đường chính (Maitreya Chapel), cung điện của Ban Thiền Lạt-ma (Gudong), thư viện, phòng trưng bày, bảo tháp thờ xá-lợi các vị Ban Thiền Lạt-ma, điện Kelsang, v.v… Tháp thờ Đức Phật Di Lặc được xây dựng vào năm 1914 và là tòa nhà lớn nhất ở Tashilhunpo, Vị Ban Thiền Lạt-ma thứ chín đã xây tòa nhà này đề thờ bức đại tượng Phật Di Lặc mạ vàng to nhất trên thế giới. Bức tượng tuy cao 26.2 m, được đúc và trang trí bởi hơn 279 kg vàng, 150,000 kg đồng, kim cương, ngọc trai và nhiều loại đá quý khác… Một điểm đặc biệt nữa là bức tượng này được làm hoàn toàn bằng thủ công trong suốt 9 năm bởi hơn 900 thợ thủ công giỏi, khi đến đây du khách có thể thỏa sức chiêm ngưỡng kiệt tác này bằng cách di chuyển trên các bậc cầu thang gỗ lên phía trên cao. Hội đường chính là một trong những công trình được xây dựng sớm nhất ở Tashilhunpo, có niên đại vào thế kỷ XV TL. Có một bảo tọa lớn được đặt ở trung tâm hội đường và đây là nơi dành cho vị Ban Thiền Lạt-ma. Trong hội đường được trang trí với nhiều bức thangka dài, miêu tả những hình ảnh tái sinh khác nhau của Ban Thiền Lạt-ma. Tuy nhiên khung cảnh ở đây trông khá tăm tối với nền nhà trải đầy tọa cụ của những vị Lạt-ma… Bảo tháp thờ xá-lợi các vị Ban Thiền Lạt-ma cũng là một trong những điểm thu hút khách hành hương, một trong số đấy là Sisum Namgyel, nơi chứa lăng mộ của đức Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10. Sisum Namgyel nằm ở phía đông của tháp thờ, được xây dựng và trang trí bởi hơn 614kg vàng cùng với vô số loại đá quý khác. Nhục thân của Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 được tôn thờ và bảo quản một cách chu đáo ở bên trong, người ta nói rằng cho đến nay nhục thân của Ngài vẫn còn nguyên vẹn, không hề có dấu hiệu hư hại và kỳ diệu hơn, một vài người còn khẳng định rằng họ vẫn thấy tóc và móng tay của ngài tiếp tục phát triển. Di chuyển tiếp về phía đông của Tu viện du khách sẽ bắt gặp thêm Lăng tháp của các đời Ban Thiền Lạt Ma khác, đầu tiên chính là Kundun Lhakhang - lăng tháp của vị Ban Thiền Lạt Ma thứ tư cũng chính là vị Ban Thiền Lạt Ma đầu tiên của Tây Tạng, thầy dạy của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ năm Lobsang Gyatso. Lăng tháp này được xây dựng vào năm 1662 và được bao phủ hoàn toàn bằng vàng và bạc, may mắn không bị tổn hại gì vào thời cách mệnh Văn hóa. Cuối cùng là Tashi Langyar, nơi chứa lăng mộ của Đức Ban Thiền Lạt Ma từ đời thứ năm tới đời thứ 9. Trong thời cách mạng văn hóa Lăng tháp này đã từng bị phá hủy và mới được Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 cho xây dựng lại vào năm 1989. Cung điện của Ban Thiền Lạt-ma là nơi ở chính của những vị đức Lạt Ma, hiện giờ nơi này vẫn đang bị đóng cửa và không cho phép du khách vào thăm quan vì tính chất riêng tư. Điện Kelsang là nơi thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Quán Thế Âm Bồ tát và Đức Phật A Di Đà. Bên cạnh cung điện uy nghi Tu viện Tashilhunpo còn nổi tiếng bởi các bức tường với vô số bức phù điêu ấn ký của Đức Thích Ca. Có khoảng hơn 1000 hình vẽ chỉ ấn khác nhau, xen kẽ bởi tám biểu tượng cát tường của Phật giáo được tìm thấy bên trong tu viện. Bởi vì sự đa dạng về kích cỡ, màu sắc nổi bật và các hình vẽ tinh tế, các bức bích họa này được xem là những tuyệt tác nghệ thuật Phật giáo. Dù được xem là không gặp phải những xâm hại từ bên ngoài như những tu viện khác, nhưng Tashilhunpo cũng trải qua những thăng trầm của nó trong lịch sử lớn mạnh của mình. Tu viện từng bị cướp phá khi vương quốc Gorkha xâm lược Tây Tạng vào năm 1791, và trong giai đoạn cách mạng Văn hóa nhiều tòa nhà ở đây cũng bị phá hủy, mặc dù vậy các thiệt hại của tu viện trong quá trình này là không đáng nói so với những tu viện khác. Đặt vé máy bay giá rẻ đi Trung Quốc du lịch Tây Tạng ngày nay bạn hoàn toàn có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh vẻ đẹp kiến trúc của tu viện Tashilhunpo.
0 Comments
Tô Châu là một thành phố có lịch sử lâu đời thuộc tỉnh Giang Tô, nằm ở vùng châu thổ sông Dương Tử (hạ lưu Trường Giang). Cái tên Tô Châu có lẽ do ở phía Tây Nam thành phố này với núi Cô Tô, và vì thế Tô Châu xưa kia được gọi là thành Cô Tô. Tô Châu đặc biệt nổi tiếng vì những cây cầu xây bằng đá rất đẹp, chùa chiền và các hoa viên được thiết kế công phu tỉ mỉ, là những điểm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tìm đến Khám phá vẻ đẹp mê hồn của Tô Châu. Người Trung Quốc có câu: "Thượng hữu thiên đường, hạ hữu Tô Hàng" nghĩa là “Trên trời có thiên đường, dưới đất có Tô Hàng nhị châu”, nói lên vẻ đẹp của Tô Châu và Hàng Châu của Trung Quốc có thể sánh ngang với thiên đường, được xem là thiên đường trên mặt đất. Tô Châu được mệnh danh là Venice của Châu Á với những con sông nhỏ chạy xen giữa những dãy nhà cổ. Tô Châu là một thành phố có một lịch sử lâu đời nằm ở hạ lưu sông Dương Tử và trên bờ Thái Hồ thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Thành phố này nổi tiếng vì các cầu đá đẹp, chùa chiền được thiết kế tỉ mỉ, tinh xảo. Tô Châu sở dĩ nổi tiếng đến như vậy còn là do những Hoa viên nằm rải rác khắp trong thành phố, những Hoa viên này bắt đầu phát triển nhất là từ thời nhà Tống cùng lúc với sự hưng thịnh kinh tế và thương mại ở vùng đất này. Thế nên Tô Châu kể từ lúc đó còn được gọi là “Hoa Viên chi thành”. Nhân gian truyền nhau rằng miền Giang Nam vườn hoa rừng cây khắp trời đất, nhưng thành phố Tô Châu có vườn hoa và rừng cây trùm cả Giang Nam. Hoa viên ở Tô Châu rất là nghệ thuật, tinh xảo và là tinh hoa kiến trúc nghệ thuật vườn rừng cổ điển của phương Nam Trung Quốc. Nó không những là hoa viên của hoàng gia cung đình, hay là phú lệ hào hoa mà còn là cảnh thanh tao nhã nhặn, nổi tiếng là nghệ thuật tinh vi, lung linh ngây ngất. Do đấy mà Tô Châu nổi tiếng mỹ lệ với mọi tầng lớp người trong xã hội Trung Hoa. Hiện Tô Châu có 108 lâm viên, vốn là dinh, phủ của những quan lại xưa kia cáo lão về quê xây dựng nên mang đậm kiến trúc vườn của thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Trong đấy Sư tử Lâm là một trong 4 đại lâm viên với quy mô lớn nhất và đẹp nhất ở Tô Châu, và từ lâu nó đã được đầu tư thành điểm du lịch nổi tiếng và hút khách của Trung Quốc. Hàng năm nơi đây chào đón hàng triệu lượt khách trên thế giới, vẻ đẹp cổ kính như một chốn phiêu bồng của khu vườn luôn để lại trong lòng khách tham quan sự thán phục xen lẫn chút khắc khoải.
Lâm viên Sư tử Lâm được xây dựng ở phía Đông Bắc của Tô Châu vào cuối thời Nguyên do nhà sư Thiên Như dựng lên để hoài tưởng về một sư thầy của ông có tên là trung phong. Sư Tử Lâm là nơi chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử Trung Hoa như sư kiện Nhật ký thỏa ước đầu hàng Đồng minh tại Trung Quốc và cũng là nơi được lấy làm bối cảnh của nhiều bộ phim nổi danh như Tây Du Ký. Lâm viên này có diện tích 1,1 ha và được thiết kế với kiến trúc sơn thủy đẹp đến nao lòng, Vườn Sư tử được thiết kế và quy hoạch một cách tinh tế và chặt chẽ, được đánh giá là đỉnh cao trong kiến trúc Lâm viên của Trung Hoa. Quy hoạch Sư tử Lâm rất chặt chẽ tinh tế là đỉnh cao của kiến trúc Viên lâm Trung Hoa, khu vườn này chạy dài từ Đông sang Tây và được bao quanh bởi các tường cao. Sư tử Lâm được sắp xếp như sau: núi non ở phía Đông Bắc, những ao hồ, suối nước ở phía Tây Bắc, còn ở phía Đông và Bắc được xây dựng các tòa lâu đài. Khu quần thể này được sắp xếp và nối liền với nhau bằng một hành lang dài, có bút tích được khắc từ đời nhà Tống của các danh nhân: Mễ Phất, Tô Thức, Thái Nhượng, Hoàng Đình Kiên,… được lưu trên những bức vách của hành lang. Được thiết kế và sắp xếp một cách cầu kỳ với rải rác những tòa tháp và ngôi nhà phủ rêu, các khung cửa mang đậm nét kiến trúc cổ xưa xen lẫn giữa 72 con đường mòn quanh co với những hàng cây cảnh xung quanh, những hang động nhân tạo, các sảnh đường, các khung cửa mang đậm nét cổ kính, nhưng lại tương đối ngộ nghĩnh, tạo nên một Sư tử Lâm với kiến trúc như một trận đồ đá, khiến cho du khách tham quan tò mò tìm hiểu để có thể thử sức phá giải trận đồ này. Một số con đường còn có mái che bao quanh, dẫn du khách đến các khu vực tương đối yên tĩnh để họ có thể thả hồn mình vào không gian nơi đây. Chính giữa có một hồ nước với một vài chiếc cầu nhỏ bắc qua hồ với lối kiến trúc cổ xưa, mang lại vẻ đẹp trong veo, yên tĩnh làm du khách cảm thấy thư giãn và lắng đọng lúc nhìn ngắm nơi đây. Các khối đá dọc ven hồ có hình dáng kỳ dị được xếp chồng lên nhau, thoạt nhìn chúng rất giống với chiếc đầu sư tử vậy. Trong khuôn viên Sư Tử Lâm ấn tượng nhất là trận đồ bát quái được thu nhỏ, mô phỏng theo trận đồ nổi tiếng của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Thời xưa vua Càn Long rất thích hoa viên này và đã tới đây hai lần để phá trận và cũng đã xây dựng cho mình một mô hình lâm viên giống như Sư Tử Lâm. Sư tử Lâm là lâm viên lừng danh toàn cầu, khi đến đây du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp trầm mặc của Sư Tử Lâm Viên cũng như có dịp tìm hiểu về kiến trúc cổ của Trung Quốc. Năm 2000 Sư tử lâm được UNESCO chính thức công nhận là Di sản Văn hóa thế giới, địa danh này còn được đánh giá và đưa vào danh sách các điểm du lịch hấp dẫn nhất của đất nước này vào năm 2003. Bát Quái Gia Cát (tên cũ là Cao Long) được lập nên trong khoảng năm 1340 thuộc địa phận thành phố Lan Khê, tỉnh Chiết Giang. Ngôi làng này còn được gọi với cái tên “Trung Quốc đệ nhất kỳ thôn” và được xây dựng theo "Bát Trận đồ" của Khổng Minh, nếu như khách du lịch Trung Quốc không phải là người có trí nhớ tốt hoặc am hiểu con đường ra lối vào của làng thì chắc chắn sẽ bị lạc bởi cấu trúc các ngõ ngách ở đây hệt như mê cung. Theo lời kể xưa kia Gia Cát Đại Sư, cháu đời thứ 28 của Gia Cát Lượng đã chọn đây làm nơi an cư lạc nghiệp, ông đã thiết kế nên ngôi làng dựa trên ý tưởng cửu cung bát quái đầy thông minh và phong thủy. Hồ Chuông nằm ở trung tâm có hình ảnh thái cực với 2 nửa âm dương rõ rệt, nối với 8 con ngõ nhỏ hướng ra bên ngoài tạo thành 8 cung Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Càn tương ứng. Cấu trúc của làng được khắc họa rõ nhất khi nhìn từ trên cao, du khách sẽ thấy giống hệt như một mô hình bát quái tinh xảo. Làng Bát Quái Gia Cát không chỉ có cấu trúc độc đáo mà còn là một phòng tuyến quân sự kiên cố. Vào quá trình chiến tranh bắc phạt năm 1925, quân đội của Tiêu Kính Quang và Tôn Truyền Phương đánh nhau liên tiếp suốt ba ngày đêm ở gần thôn Bát Quái thế nhưng không một viên đạn nào lọt được vào bên trong, toàn bộ ngôi làng được bảo toàn nguyên vẹn. Trong thời kỳ kháng chiến đã có 1 nhóm quân đội Nhật càn quét qua ngọn đồi Cao Long bên ngoài thôn, thế nhưng điều kỳ lạ là quân đội này không hề phát hiện ra ngôi làng do vậy người dân nơi đây không bị một chút tổn thất nào. Đấy chính nhờ kiến trúc có một không hai của "đệ nhất kỳ thôn" này. Một điểm hấp dẫn nữa khiến làng Bát Quái Gia Cát thu hút khách du lịch là ở kiến trúc từ thời nhà Minh của các ngôi nhà, tuy được xây dựng khá lâu nhưng hầu hết chúng vẫn còn được bảo toàn nguyên vẹn, cho nên lúc đặt chân đến Bát Quái Gia Cát du khách sẽ cảm thấy choáng ngợp bởi không gian cổ xưa huyền bí, hòa hợp với thiên nhiên của nó. Ở làng Bát Quái Gia Cát tất cả các ngôi nhà được xây dựng theo hướng đối mặt và dựa lưng vào nhau, những ngõ ngách đan xen chằng chịt giống như một mê cung huyền bí. Các hậu thế của Khổng Minh Gia Cát Lượng sống tập trung tại Gia Cát trấn, trải qua thời gian dài cộng đồng dân cư này cũng hình thành 1 lối sống rất độc đáo, khác biệt với thế giới bên ngoài, đấy là lối sống giản dị, chân thật nhưng cũng đầy thú vị. Khi đi thăm thú nơi đây nếu quan tâm kỹ một chút có thể thấy rằng trong những con ngõ nhỏ, các ngôi nhà không được xây đối diện nhau mà phần lớn đều được đan xen so le theo lối "môn không đăng, hộ không đối". Điều này được lý giải bởi theo quan điểm của người dân làng Bát Quái thì nếu nhà "cổng đối cổng" ngày ngày mọi người trong gia đình ra vào, qua lại nhiều quá sẽ dễ dẫn tới mâu thuẫn không đáng có. Vì vậy nếu như xây nhà theo lối đan xen thì vấn đề sẽ được khắc phục. Xem thêm: Vé máy bay đi Hồ Nam Trung Quốc Ngoài ra người dân ở Gia Cát trấn chủ yếu áp dụng phương thức tứ hợp viện để xây dựng nhà cửa, tức là bốn mặt nhà đóng kín, chỉ để ở giữa một khoảng sân lớn. Mặt trước của ngôi nhà thường cao hơn những mặt khác, mỗi khi trời mưa nước tập trung hết ở khoảng sân ở giữa. Người làng Bát Quái gọi đây là "phì thủy bất ngoại lưu" nghĩa là dòng nước trong lành, tươi tốt không chảy ra ngoài, sẽ mang tới may mắn và thịnh vượng cho gia đình. Cuộc sống ở Bát Quái Gia Cát rất êm đềm và thanh bình, không khí tại làng cổ này cũng vô cùng trong lành và xanh mát; đây chính là không gian tuyệt vời để du khách nghỉ dưỡng sau những ngày làm việc căng thẳng. Mỗi năm dân số và nhà cửa ở làng Bát Quái Gia Cát đều tăng cao nhưng không làm mất đi cấu trúc độc đáo của nó, đã có rất nhiều khách du lịch nước ngoài tìm đến đây để được chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên và tự trải nghiệm cấu trúc tinh tế của ngôi làng. Hiếm có nơi nào lại có được cấu trúc độc đáo như "kỳ thôn" Bát Quái Chu Cát của Trung Quốc, khi đặt chân tới nơi đây phong cách kiến trúc cổ kính làm cho người ta như đắm chìm trong không gian của sự dung hòa giữa thiên nhiên kỳ diệu và bàn tay khối óc không ngừng của con người. Bước chậm rãi trong các con ngõ để thưởng thức các bức điêu khắc gỗ, hội họa đặc biệt, du khách sẽ có cảm giác như vừa bước vào một bức tranh 3D tuyệt đẹp không đâu sánh được. Gần khu vực làng Bát Quái còn có nhiều danh thắng khác, du khách có thể ghé thăm như hồ Thiên Đảo, cung Hoàng Đại Tiên, suối nước nóng Vũ Nghĩa... để hiểu thêm về văn hóa, nếp sống. Ngoài ra khi tới khám phá ngôi làng độc đáo này du khách cũng đừng quên thưởng thức những món “đặc sản” như món ăn Kim Hoa, rau dại, bánh nướng Khổng Minh, rượu Mai Giang... Đảm bảo du khách càng thêm yêu nơi đây và muốn ghé thăm lại bất cứ khi nào. Du khách hãy đặt ngay cho mình một tour du lịch Trung Quốc và dành thời gian đến Tìm hiểu nét độc đáo của Làng Bát Quái Gia Cát kỳ lạ và nổi tiếng này nhé, chúc du khách có một chuyến đi với thật nhiều trải nghiệm thú vị. Cung điện Potala là biểu tượng cho tôn giáo và chế độ thần quyền của Tây Tạng, ngày nay vẻ đẹp kiến trúc đặc sắc của quần thể Cung điện Potala uy nghi tại nơi cao nhất Lhasa này là biểu tượng linh thiêng cho văn hóa và Phật giáo của vùng đất Tây Tạng. Vẻ đẹp kiến trúc độc đáo của cung điện Potala đã khiến nơi đây trở thành một trong các điểm hành hương và thăm quan chính của người dân Tây Tạng và du khách quốc tế. Potala gồm hai tòa lầu chính là Portrang Karpo (Bạch Cung) và Portrang Marpo (Hồng Cung); phần trung tâm của Potala được gọi là Hồng Cung do có màu đỏ thẫm khác hẳn với các phần còn lại. Hồng Cung là khu vực dành cho nghiên cứu tôn giáo và tụng niệm kinh Phật, kế bên đấy ở đây còn có những linh tháp vàng, nơi an nghỉ của tám vị Đạt Lai Lạt Ma, hội trường của những nhà sư, nhiều điện Phật, đền thờ, thư viện đựng kinh kệ và một số sảnh điện khác. Nội thất Hồng Cung được trang trí bằng đá quý, các bức tượng được điêu khắc công phu, chi tiết chạm nổi truyền thống cùng nhiều bức tranh tường phong phú… Bố cục của Hồng Cung khá phức tạp, bao gồm nhiều phòng và hành lang quanh co ở nhiều tầng khác nhau, một số phần tiêu biểu như: Đại Tây Sảnh: Đây là Hội trường trung tâm chính của Hồng Cung gồm bốn điện Phật lớn tượng trưng cho vinh quang và quyền lực của người xây dựng Potala là Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 5. Các bức tranh tường lộng lẫy ở đây miêu tả những sự kiện trong cuộc đời Đức Đạt Lai Lạt Ma này, cảnh nổi tiếng khi ông gặp Hoàng đế Thuận Trị ở Bắc Kinh được khắc trên mảng tường phía Đông bên ngoài lối vào, các cột trong sảnh được bọc bằng một loại vải đặc biệt từ Bhutan. Điện Phật của Tùng Tán Cán Bố: Về phía Bắc của Đại Tây Sảnh là một ngôi đền quan trọng của Potala. Điện Phật ở đây cũng như hang động phía dưới có từ thế kỷ thứ 7, nghĩa là trước khi Potala được khởi công xây dựng. Điện Phật có 1 viên ngọc cổ nạm vào tượng Quán Thế Âm bên cạnh tiên đồng, ngọc nữ. Tầng dưới là một hành lang tối và thấp dẫn vào hang thiền, nơi Tùng Tán Cán Bố được cho là đã nghiên cứu Phật giáo. Trong hang có những hình ảnh của Tùng Tán Cán Bố, vợ ông, giám đốc hội đồng bộ trưởng, Sambhota (người phát triển chữ viết Tây Tạng), cùng nhiều vị thần. Điện Phật phía Bắc: Trung tâm của điện là bức tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bên trái và tượng Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 bên phải. Góc trái điện là ngôi mộ cổ trong linh tháp vàng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 11, trên bia có các hình ảnh điêu khắc cảnh chư Phật chữa bệnh cho vị này. Bên phải điện Phật là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và những hóa thân lịch sử của ngài (theo Phật giáo Tây Tạng), bao gồm Tùng Tán Cán Bố và bốn Đức Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên; căn phòng bên cạnh là một thư viện chuyên ngành, trong đó có các quyển kinh được bọc trong lụa và đặt vào hộp gỗ. Điện phía Nam: Giữa điện là tượng Đức Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), một đại sư người Ấn Độ từng tới Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8. Phật giáo Tây Tạng cho rằng ông là hiện thân của Đức Phật A Di Đà. Các tượng bên trái Liên Hoa Sinh là người vợ tên Yeshe Tsogyal, một mối lương duyên được sắp đặt bởi vua Tây Tạng, kế đến là tám hiện thân thánh thiện của ông. Bên phải là người vợ mà ông đã cưới ở quê nhà và tám hiện thân thịnh nộ của ông. Điện phía Đông: Đây là khu điện thờ Tông Khách Ba (Tsong Khapa), người sáng lập tông phái Phật giáo Cách Lỗ (Gelug) của Tây Tạng. Bao quanh bức tượng trung tâm của ông là các vị Lạt Ma từ chủng viện Sakya. Những người này đã cai trị Tây Tạng trong một khoảng thời gian ngắn, họ cũng đã thành lập một tông phái riêng trước khi được Tông Khách Ba cải đạo. Điện phía Tây: Khu điện này có chứa 5 linh tháp vàng, xác ướp của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 được đặt trong linh tháp trung tâm cao 14,85m. Linh tháp này được xây dựng từ gỗ đàn hương, phủ vàng, đính 18.680 viên ngọc trai và ngọc bán quý. Bên trái là tháp chứa tử thi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 12 và bên phải là tháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 10, linh tháp gần đó thờ Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 (không chứa thi hài) cao 22m, các linh tháp khác chứa các bộ kinh quan trọng. Hành lang thứ nhất nằm một tầng trên điện phía Tây, những cửa sổ lớn ở đây được thiết kế để thu sáng, đồng thời thông gió cho Đại Tây Sảnh và những điện Phật bên dưới. Giữa những cửa sổ này là những bức tranh tường nhằm thể hiện chi tiết quá trình xây dựng cung điện Potala. Hành lang thứ hai dẫn vào gian hàng trung tâm nơi du khách nghỉ ngơi và mua quà lưu niệm. Hành lang thứ ba có nhiều bức tranh tường và các khu vực trưng bày, lưu giữ vô số những bộ sưu tập tượng đồng. Phòng tụng kinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 7 ở phía Nam, phía Đông là con đường dẫn tới khu điện Phật của Tùng Tán Cán Bố và khu Deyangsar (nối với Bạch Cung). Lăng mộ của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13: Ngôi mộ này được đặt ở phía Tây của Đại Tây Sảnh. Đây là một linh tháp cao 14m, được xây dựng vào năm 1933. Để đến đây du khách cần một nhà sư hoặc hướng dẫn viên dẫn đường, những đồ cúng cho tang lễ vẫn còn được đặt trong lăng mộ, gồm ngà voi từ Ấn Độ, sư tử bằng sứ và nhiều chiếc lọ. Các bức tranh tường phức tạp theo phong cách Tây Tạng truyền thống thể hiện các sự kiện trong cuộc đời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Nằm về phía Đông của Hồng Cung là Bạch Cung, đây là nơi chuyên vụ sinh hoạt tôn giáo và chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nơi đây có đặt ngai vàng của Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng thời là nơi ở của ngài. Bạch Cung gồm hai điện chủ yếu là Điện Đông Nhật Quang và Điện Tây Nhật Quang; Điện Đông Nhật Quang được xây dựng vào năm 1922 dưới thời vị Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, và Điện Tây Nhật Quang được xây dựng từ năm 1645 dưới thời vị Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, hiện không mở cửa cho khách tham quan. Sảnh ở Điện Tây Nhật Quang rất lớn, nơi đây là nơi tổ chức làm việc của Đức Đạt Lai Lạt Ma; nổi bật nhất là các bức tường treo đầy các bức họa với hình ảnh Đa La Bồ Tát làm chủ đạo. Cung điện Potala xứng đáng là một kho tàng văn hóa của Phật giáo Tây Tạng với khoảng 698 bức tranh, gần 10 ngàn cuộn tranh giấy và nhiều tác phẩm điêu khắc giá trị. Từ những bức tường ở cổng vào tới thảm, mái che, rèm cửa… đều là các tác phẩm nghệ thuật truyền tải văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Đặc biệt tại đây còn lưu giữ một cuốn kinh Phật được viết bằng tay với chữ bằng vàng, và có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ đa sắc màu cùng những bức họa ghi chép những sự kiện về cuộc đời Đức Phật theo truyền thống văn học dân gian và đời sống của người dân Tây Tạng thời xưa. Bên cạnh đấy còn có nhiều tượng Phật, đồ thờ cúng như lư hương, đèn, bình hoa… toàn bằng vàng, bạc, đồng, ngọc trai, mã não và nhiều loại đá quý khác; trong đó có ngôi tháp nổi tiếng nhất thế giới có gắn hơn 2.000 viên ngọc trai lấp lánh đủ màu sắc. Trong các tủ xưa còn lưu giữ nhiều bộ đồ ăn uống như chén, bát, đĩa, thìa, nĩa, đũa, ấm trà, chén trà, bình đựng trà, bình đựng sữa, chén uống sữa… đủ kiểu, đủ màu, được làm bằng vàng, bạc, sứ, men… qua những thời đại ở Trung Quốc và nhiều nước khác. Nếu như có dịp đến với vùng đất Tây Tạng Với Vẻ Đẹp Mang Đậm Chất Huyền Bí trong hành trình du lịch Trung Quốc, du khách đừng quên dành thời gian tới khám phá quần thể kiến trúc Potala hùng vĩ này nhé! Làng Quách Lượng (Guoliang) nằm trong rừng núi đá tại ngã ba chỗ giao nhau giữa tỉnh Sơn Tây và Hà Nam; ngôi làng được bao quanh bởi các ngọn núi lớn, thế núi dựng thẳng đứng cao ngút tầm mắt. Sâu trong núi Thái Hành Sơn (núi Taihang) trên vách núi dựng đứng cao 200m, Quách Lượng được mệnh danh là ngôi làng nguy hiểm nhất thế giới. Du khách muốn đến Khám phá ngôi làng Quách Lượng hiểm trở tại Trung Quốc nên bắt đầu từ thành phố Tân Hương (Hà Nam), lái xe về phía bắc đại lộ Huanyu (cột S229) và đi tiếp 20 km tới thị trấn Huixian; tại đây đi thẳng cho tới giao lộ giữa S229 và S228, sau đó rẽ trái đi tiếp khoảng 13km đến làng Nanzhaizen. Rẽ trái một lần nữa và đi theo bảng hướng dẫn khoảng 13km để tới làng. Trải qua niên đại 600 năm, Mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây một tuyệt tác giống như những "bậc thang dẫn lên Trời" được cấu thành từ 720 bậc đá cheo leo. Ngôi làng nằm trong "rãnh trời" tự nhiên này chỉ cách núi Tích huyện Lăng Xuyên (Trung Quốc) không quá 10km. Ngôi làng cao 1700m so với mực nước biển vậy nên vốn trời sinh đã có khí thế sừng sững, tôn nghiêm. Nếu như thực sự đứng từ trên cao nhìn xuống chắc hẳn không ít người sẽ cảm thấy nôn nao, choáng váng. Lý Bạch với bài thơ "Thục đạo nan" đã nói rằng: "Đường tới nước Thục khó, khó hơn lên trời xanh", nhưng xem ra vẫn không thấm gì so với con đường lên ngôi làng này. Bởi trước đấy để lên đến ngôi làng này chỉ có duy nhất một con đường mòn được biết đến như là "thang lên trời" với 720 bậc đá dựng đứng và không có lan can. Chính quyền địa phương từ chối tài trợ tiền xây con đường chỉ để phục vụ cho 350 người sống ở Quách Lượng vào thời điểm đó, cho nên đã có 13 người nông dân anh dũng dùng các dụng cụ thô sơ, nguyên liệu nổ để đào 1 con đường hầm vào trong các vách đá và thật không may 7 người đã chết trong quá trình xây dựng, nhưng những người còn lại đã không bỏ cuộc, họ đã khoan 12 tấn đá và dùng hết 4,000 cái búa để hoàn thành con đường này. Xem thêm: Vé máy bay Trung Quốc về Việt Nam Đường hầm chính thức được mở cửa cho khách bộ hành qua vào năm 1977, chỉ dài khoảng 0.8 dặm, cao 16 feet và rộng 13 feet, chỉ đủ rộng cho hai chiếc ô tô lưu thông. Có khoảng 30 "cửa sổ" với những hình dáng và kích cỡ khác nhau được tạo ra với mục đích loại bỏ đất đá đào bới bởi đội ngũ xây dựng, nhưng giờ những cửa sổ này có tác dụng đón ánh sáng vào đường hầm. Điều đáng kể ở đây là đá tại vùng núi này thuộc loại đá trầm tích, với độ cứng cáp 8,3 vậy mà họ lại có thể đào hoàn toàn thủ công như vậy, thật đáng khâm phục! Con đường vào làng cũng là một trong 10 cung đường dốc nhất thế giới và cũng được biết đến như "1 con đường mà người lái xe không được phép phạm sai lầm". Và Quách Lượng trở thành điểm đến của khách du lịch bởi sự quyến rũ của con đường hầm này và đã có một vài khách sạn được xây dựng ở đấy. Sự thành công của công trình này đã tạo cảm hứng cho sự ra đời của 2 con đường hầm khác cũng được xây dựng thủ công nhằm mục đích tiếp cận những ngôi làng ở trên đỉnh núi chênh vênh ở tỉnh Hà Nam xa xôi đó là đường hầm Xiyagou và Kunshan. Chinh phục cung đường nguy hiểm và đặt chân đến ngôi làng du khách sẽ bắt gặp kiến trúc của những ngôi nhà ở đây có phong cách rất mộc mạc, khoẻ khoắn. Vài chục hộ gia đình sống trong những ngôi nhà có tường được xây bằng đá núi, dính bằng vôi, cửa làm bằng gỗ… đặc biệt nhất là mái ngói được làm bằng những phiến đá ngọc tìm thấy trong núi, dưới làn sương mỏng, hiện lên trông vô cùng tinh tế. Làng Quách Lượng hiện có 83 hộ gia đình với tổng cộng 329 người, đại đa số đều là họ Thân. Gia tộc họ Thân vốn là quan chức tại Nam Kinh vào cuối thời nhà Nguyên, tới đầu nhà Minh; Hoàng Đế Chu Nguyên Chương bắt gia tộc họ Thân đi đày đến Thanh Hải làm lao động khổ sai, trên đường Sơn Tây họ Thân đã trốn thoát. Một bộ phận nhỏ của gia tộc đã trốn vào núi Thái Hành sống ở ngôi làng Quách Lượng, đã bao nhiêu năm qua, bất kể là gặp các tai họa gì, dân làng đều cố gắng giữ vững gia tộc, tuân theo lời di huấn của tổ tiên. Làng Quách Lượng còn có tên gọi khác là Ao Trời, vào năm 1975 người dân nơi đây đã cải tạo lại con đập tạo thành một hồ nước nằm ngay giữa Thiên - Địa - Nhân đúng như tên gọi! Ngôi làng Quách Lượng nguy hiểm nhất thế giới nhưng lại mang đến cho người ta cảm giác như đang xa rời cõi hồng trần xô bồ và chật hẹp. Bức tranh sinh động này có lẽ sẽ làm nhiều người cảm thấy nao lòng… nếu có dịp đặt Vé máy bay giá rẻ nhất đi Trung Quốc du lịch bạn đừng quên khám phá vẻ đẹp của địa danh nổi danh này nhé, chúc du khách có thật nhiều trải nghiệm thú vị! Hàn Sơn Tự nổi tiếng là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Trung Quốc, ngôi chùa này nằm ở phía Tây của trấn Phong Kiều, cách trung tâm Tô Châu gần 5km, ngoài con kênh hẹp và có một cây cầu đá dốc cao bắc ngang trước chùa. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ VI, thời nhà Lương (502-519) với tên gọi ban đầu là Diệu Lợi Phổ Minh Tháp viện; đến thời nhà Đường tên gọi Hàn Sơn mới được đặt nhằm tưởng nhớ đến nhà sư trụ trì nơi đây. Sau những thăng trầm Hàn Sơn tự đã được các triều đại trong nhà Thanh sửa chữa và được giữ gìn cho đến ngày nay. Hàn Sơn Tự - Ngôi chùa cổ linh thiêng của Trung Quốc chủ yếu được dùng để thờ cúng về sự hòa hợp như: Sự hòa quyện tâm hồn của vợ chồng, Quốc gia hòa hợp hay hơn cả là hòa bình của thế giới. Bởi truyền thuyết về tình anh em giữa Hàn Sơn – Thập Đắc; chuyện kể rằng ngày xưa ở miền quê nọ có 2 chàng trai tên là Hàn Sơn và Thập Đắc, họ thân thiết và sống với nhau trong tình nghĩa anh em. Khi gia đình đi hỏi vợ cho mình Hàn Sơn mới biết rằng cô dâu tương lai ấy chính là người yêu của Thập Đắc, vì sợ buồn lòng em cho nên chàng đã lặng lẽ bỏ nhà ra đi và dừng chân ở một ngôi chùa nhỏ. Về phần Thập Đắc nghĩ rằng vì mình mà Hàn Sơn ra đi nên cũng quyết đi tìm anh, cuối cùng như duyên trời định họ lại gặp nhau tại chính ngôi chùa nơi Hàn Sơn ẩn mình, họ lại sống cùng nhau như huynh - đệ ngày nào. Cảm động vì câu chuyện trên vì vậy tên gọi Hàn Sơn đã được đặt cho ngôi chùa để tưởng nhớ. Không chỉ thu hút du khách bằng những câu chuyện kể, Hàn Sơn tự còn là nguồn cảm hứng vô tận của bao lớp thi nhân. Trong cảnh tình miền sông nước Giang Nam, Trương Kế đã viết nên những vần thơ Đường bất hủ, gói tròn trong Phong Kiều Dạ Bạc về một đêm trăng tàn chợt ngân lên tiếng chuông đêm của cổ tự Hàn Sơn. Tương truyền Trương Kế (742-756) người Tương Châu (ngày nay giáp thành phố Tương Phán, tỉnh Hồ Bắc) trên đường về lại cố quận trong đêm thanh vắng đã neo thuyền trên bến Phong Kiều gần chùa Hàn Sơn. Với tâm trạng buồn bã vì vừa thi rớt, thêm vào cảnh đìu hoang vắng với ánh lửa le lói của dân thuyền chài, nghe tiếng quạ kêu và tiếng chuông chùa Hàn Sơn, ông đã "tức cảnh sinh tình" sáng tác bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc", trở thành tác phẩm nổi tiếng trong văn học Trung Hoa. Chỉ bốn câu thôi nhưng cũng đủ để người ta hình dung về một khoảng trời mênh mông, giữa màn sương lạnh, vạn vật dường như đã đi vào giấc nồng của vũ trụ, chợt vang lên tiếng chuông đêm thánh thót khiến cho cả không gian dường như bừng tỉnh. Hàn Sơn tự tọa lạc trên một khu đất rộng 10.600m2 với sự kết hợp của kiến trúc, sự cân đối giữa cảnh vật. Tất cả đều khiến cho ngôi chùa toát lên vẻ đẹp hài hòa mà cổ điển, nét đặc trưng trong phong cách kiến trúc của những ngôi chùa ở Trung Hoa. Hàn Sơn Tự được xem là điểm đến lý tưởng, đưa toàn bộ người tới đây có thể mở rộng tâm hồn, đón nhận sự anh linh và ngắm toàn bộ phong cảnh cũng như kiến trúc chùa tiêu biểu của Trung Quốc. Xem thêm: Khám Phá Vẻ Đẹp Mê Hồn Của Tô Châu Hàn Sơn Tự nổi tiếng với nhiều kiến trúc trang nghiêm và cổ kính như Ðại Hùng Bửu Ðiện, Phổ Minh Tháp Viện, Hàn Thập Ðiện, La Hán Ðường, Hàn Tháp Ðình, Phương Trượng Thư, Hoằng Pháp Ðường, Tàng Kinh Lâu, Tăng Ðường và vườn Phong Kiều. Nhưng đặc biệt nhất có lẽ là tháp chuông trên đó chỉ treo duy nhất một quả chuông đồng nặng 2 tấn (2,000 kg), mỗi khi tiếng chuông ngân lên nghe thanh thoát làm tan biến mọi phiền não. Tương truyền rằng Trương Kế năm sau đó đã đậu Tiến Sĩ vì ở lại học ôn tại Hàn Sơn Tự và hằng đêm nghe tiếng chuông thanh tịnh làm trí não minh mẫn thêm. Đây chính là điều lý giải cho sự nổi tiếng của chùa Hàn Sơn. Tiếng chuông ở đây được coi là một di sản văn hóa phi vật thể của Tô Châu. Vì tiếng chuông chùa Hàn Sơn nổi tiếng như thế, hàng năm đúng vào lúc giao thừa chùa Hàn Sơn lại tổ chức Lễ hội thỉnh Đại hồng chung trang trọng, 108 tiếng chuông sẽ được gióng lên ngân nga. 108 tiếng chuông biểu tượng cho 108 phiền não mà con người thường phải đối mặt trong cuộc sống. Lễ hội này thường thu hút rất nhiều Phật tử và du khách đến tham gia, người ta tin rằng người nào nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn vào đêm giao thừa thì 108 phiền não cũng sẽ được bay đi theo gió và trong năm mới không còn phiền muộn nữa. Chùa Hàn Sơn còn có hệ thống tượng Phật, Tôn hành giả, Thập bát La Hán, các bia đá ghi lại những vần thơ tuyệt tác của những thi nhân ở Trường Lang và cũng không quên nhắc đến những cái chuông đã làm nên cái hồn cho Hàn Sơn tự, nhất là vào những đêm trừ tịch, khi 108 tiếng chuông ngân vang lên giữa đêm, người ta mới cảm hết được cái thần và hồn của Phong Kiều Dạ Bạc trên bến nước Cô Tô. Ngày nay khi đến viếng Hàn Sơn tự du khách còn có dịp chiêm ngưỡng bức bích họa nổi tiếng có tên "Hàn Sơn - Thập Đắc" được khắc trên đá của danh họa đời Thanh - La Sính Sở, thủ bút của thư pháp gia nổi tiếng Trương Xư Liêu - đời Tống qua bộ kinh Kim Cương hay khám phá Tàng Kinh các - nơi lưu trữ kinh thư nhà Phật. Chùa Hàn Sơn được xếp vào danh mục một trong mười ngôi chùa cổ nổi tiếng nhất Trung Hoa, mỗi năm có đến hàng triệu lượt du khách trong và ngoài nước đến viếng chùa và thưởng ngoạn phong cảnh hữu tình của vùng sông nước Cô Tô. Nếu có dịp mua Vé máy bay sang Trung Quốc du lịch du khách không nên bỏ lỡ cơ hội ghé thăm nơi đây nhé. Quảng trường Thiên An Môn là một trong những điểm tham quan ở Trung Quốc lớn nhất và nổi tiếng nhất. Quảng trường toạ lạc tại thủ đô Bắc Kinh, được xem như nơi tượng trưng cho trái tim của đất nước Trung Quốc và là niềm tự hào của người dân nơi đây. Danh tiếng của Thiên An Môn không đến từ phong cách kiến trúc mà từ bề dày lịch sử của quảng trường, toàn khu quảng trường được bao bọc bởi những danh lam, thắng cảnh nổi tiếng nhất của thủ đô Bắc Kinh và chắc chắn không du khách nào có thể bỏ qua khi đặt Vé máy bay giá rẻ đi Trung Quốc đến với thành phố này. Thiên An Môn được bắt đầu xây dựng vào năm 1417 với tổng diện tích là 440.000m2, có chiều dài 880m theo hướng Nam - Bắc và chiều rộng 500m theo hướng Đông - Tây. Thời xưa quảng trường có tên gọi là Thừa Thiên Môn, thuở ban đầu quảng trường này không hề có cổng chào và vào năm 1651, cổng của nó được xây dựng thêm và sửa chữa thêm một số hạng mục công trình. Từ đời nhà Minh và nhà Thanh, tại Thiên An Môn không có quảng trường mà thay vào đó khu vực này là những cơ sở của triều đình. Trong cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn, khu này bị thiệt hại nhiều và đã được dẹp để tạo ra quảng trường ngày nay. Trong năm 1949, quảng trường được nới rộng ra thành diện tích như bây giờ. Quảng trường Thiên An Môn nổi bật bởi bức tượng đài Nữ thần Dân chủ có hướng mặt nhìn thẳng vào bức ảnh của Mao Trạch Đông. Đây là bức tượng lớn có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn của hội sinh viên Bắc Kinh trong sự kiện đòi dân chủ tại Trung Quốc, nó giúp khơi dựng lại ý chí chiến đấu trong toàn thể sinh viên khi mà phong trào đang có dấu hiệu suy thoái. Chính giữa quảng trường có Bia Kỷ niệm Anh hùng Nhân dân và Lăng Mao Trạch Đông vô cùng trang trọng, Quảng trường nằm ở giữa hai cổng đồ sộ có nét cổ xưa vô cùng trang nghiêm: phía Bắc là cổng Thiên An Môn nổi tiếng và phía Nam là cổng Tiền Môn. Dọc theo phía Đông là Viện bảo tàng Quốc gia Trung Hoa, bảo tàng này ra đời vào năm 2003 và là sự kết hợp của Bảo tàng Lịch sử Trung Quốc và Bảo tàng Cách mạng Trung Quốc. Bảo tàng Quốc gia đối mặt với Đại lễ đường Nhân dân, bên trong Bảo tàng Cách mạng Trung Quốc có rất nhiều đối tượng vật chất, hình ảnh, sách và các mô hình để trình bày sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Bảo tàng Lịch sử Trung Quốc cho thấy một số lượng lớn những di tích văn hóa minh họa lịch sử lâu dài và văn hóa rực rỡ của Trung Quốc từ 1.700.000 năm trước. Trong khuôn viên quảng trường là Đại lộ Trường An - nơi thường được dùng trong những cuộc diễu hành lớn cấp quốc gia. Dọc theo lề phía Đông và phía Tây quảng trường có cây xanh che bóng mát, nhưng bên trong sân quảng trường thì trống rỗng, chỉ có những cây cột đèn lớn với máy thu hình theo dõi. Ở phía Bắc kết thúc của Quảng trường Thiên An Môn là Tháp Thiên An Môn, ban đầu được xây dựng vào năm 1417 dưới thời nhà Minh (1368 AD-1644 AD), quảng trường là cửa trước của Tử Cấm Thành. Việc sử dụng quan trọng nhất của nó trong quá khứ là đã tuyên bố trong một buổi lễ lớn để những người dân thường đã trở thành hoàng đế và đã trở thành hoàng hậu. Cho đến năm 1911 khi những vương quốc phong kiến cuối cùng đã kết thúc không ai có thể vào tháp trừ những gia đình hoàng gia và quý tộc. Quảng trường Thiên An Môn là nơi thường xuyên diễn ra những quốc lễ quan trọng và sự kiện lịch sử lớn của người dân Trung Quốc, vì vai trò quan trọng của nó mà nơi đây luôn được đội ngũ cảnh sát giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên điều này sẽ không làm ảnh hưởng gì nhiều đến hoạt động tham quan của các du khách. Ngày nay Quảng trường Thiên An Môn là điểm dừng chân của mọi đoàn khách du lịch khi đến với Bắc Kinh, du khách hãy đến điểm tham nổi tiếng này vào đầu giờ sáng để xem lễ thượng cờ được tổ chức mỗi ngày cùng lễ duyệt binh của quân đội, cờ cũng được hạ theo nghi thức long trọng không kém vào lúc hoàng hôn. Ngoài ra tại đây hãy thử cùng những người dân hiền hòa thả diều giữa trời chiều lộng gió hay chụp vài tấm ảnh kỷ niệm, tuy nhiên nên chú ý quan tâm là toàn khu quảng trường hoàn toàn không có một bóng cây hay một băng ghế nào để nghỉ chân, vì thế hãy nhớ mang theo nón, ô, nước uống và chuẩn bị kem chống nắng cẩn thận. Để đến thăm quan quảng trường Thiên An Môn du khách có thể chọn lựa đi tàu điện ngầm - một phương tiện được sử dụng khá phổ biến tại Trung Quốc. Du khách đi tàu số 1 xuống ga Tian’anmen East (Đông Thiên An Môn) hoặc đi tuyến số 2 xuống tại ga Qianmen hoặc đi xe buýt 101, 103 đến trạm Gugong. Quảng trường Thiên An Môn được mở cửa và luôn sẵn sàng đón tiếp du khách mỗi ngày, giá vé vào cửa dành cho một người là 15¥. Đã có rất nhiều người mơ ước được một lần ghé thăm Quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh để khám phá vẻ đẹp kiến trúc cũng như bề dày lịch sử nơi đây. Phổ Đà Sơn tên cũ là Tiểu Bạch Hoa, còn được gọi với nhiều tên gọi khác là Bố Đà Lạc Già, Hải Thiên Phật Quốc, Nam Hải Thánh Cảnh, Mai Sầm Sơn. Phổ Đà Sơn nằm trong biển Đông Nam, huyện Định Hải, tỉnh Chiết Giang, cách núi Chu Sơn khoảng 6 dặm giáp với thành phố Hàng Châu. Ngọn núi này dài 12 dặm, rộng 6,5 dặm, chu vi hơn 40 dặm; phía Đông dẫn tới đất nước Nhật Bản, phía Bắc tiếp với Đăng Lai, phía Tây thông với Ngô Hội, phía Nam trông về Mân Việt, cách mực nước biển hơn một ngàn thước với khí hậu ôn hòa, phong cảnh thanh nhã đặc biệt, là Thánh địa Phật giáo Trung Quốc. Ngọn núi này cùng với Nga Mi Sơn của Tứ Xuyên, Cửu Hoa Sơn của An Huy, Ngũ Đài Sơn của Sơn Tây hợp lại xưng là Tứ Đại Danh Sơn của Trung Quốc. Ngọn núi Phổ Đà Sơn linh thiêng hàng đầu Trung Quốc này là nơi đầu tiên Quán Thế Âm Bồ Tát phổ độ chúng sinh, theo truyền thuyết Trung Quốc kể lại rằng Quán Thế Âm Bồ Tát vốn tên là Diệu Thiện, là con gái thứ 3 của Sở Trang Vương thời Xuân Thu, từ nhỏ đã ăn chay và tin Phật, một lòng xuống tóc đi tu, nhưng bị vua cha kiên quyết bác bỏ rồi giết chết. Thế nhưng Diêm Vương lại làm cho nàng sống lại trên một tòa sen trên chiếc hồ cạnh Phổ Đà Sơn; tại đây nàng phổ độ chúng sinh, hành thiện giúp thiên hạ. Phổ Đà Sơn được miêu tả: "Đại dương mênh mông, thế nước đến trời. Tường quang lồng vũ trụ, khí lành chiếu non sông. Ngàn tầng sóng gào đến trời xanh, vạn lớp yên ba cuồn cuộn giữa trưa ngày…". Chính vì vậy hiện nay đây là một trong những điểm hành hương thu hút du khách trong và ngoài nước tại Trung Quốc. Để đến Phổ Đà Sơn, từ Hàng Châu du khách di chuyển bốn tiếng bằng xe đò để đến bến tàu, mua vé qua phà (khoảng 25 tệ, thời gian di chuyển 15 phút). Sau khi đến bến phà bên kia, du khách đi bộ khoảng 15 phút hay xe bus miễn phí là đến nơi. Núi Phổ Ðà với lớn nhỏ hơn ba trăm ngôi chùa, mười hai tháp Phật với kiến trúc đặc biệt. Những am viện lợp tranh kết cỏ đó đây liền nhau mạch lạc, trật tự rành mạch cùng với khí hậu ôn hòa, phong cảnh tao nhã đặc biệt. Trên Phổ Đà Sơn có tượng Nam Hải Quan Âm bằng đồng cao 33m, du khách có thể chiêm ngưỡng được từ nhiều nơi. Tượng có 2 tầng, tầng dưới phía trong có 4 bức phù điêu đồng với câu chuyện truyền thuyết về đức bồ tát Quan Âm, tầng trên có 500 tượng Quan Âm mỗi vẻ mỗi dáng khác nhau. Ngày 29/9 âm lịch năm 1997 là thời điểm diễn ra lễ kiến thành tượng vàng đồng Nam Hải Quan Âm, vào lúc sắp làm lễ, trên không trung mây đen dày đặc, trời mưa tầm tã. Khi Đại lão Hòa thượng Diệu Thiện tuyên bố khai quang tượng Phật, bất chợt mây tan, vầng dương tỏa chiếu. Phía bên trái của tượng Nam Hải Quan Âm là "Viện Quan Âm Bất Khẳng Khứ", tức "Viện Quan Âm không chịu đi". Tương truyền vào năm 858 có một thiền sư Nhật Bản với pháp danh Tuệ Ngạc đến Ngũ Đài Sơn học đạo, khi về nước thiền sư rước tượng Phật theo nhưng khi ngang qua Phổ Đà Sơn thì giông bão nổi lên. Đến khi khấn lạy, thỉnh tượng ở đây phụng dưỡng thì trời yên bể lặng. Thiền sư liền chọn nơi đây xây thành "Viện Quan Âm Bất Khẳng Khứ". Ngôi chùa là quần thể công trình có thế lưng tựa núi, nằm vươn ra biển. Dọc hành lang ngôi chùa cạnh biển còn đặt các bức tượng Quan Âm bằng đá với nhiều hình dáng khác nhau. Toàn bộ Phổ Đà Sơn chia thành 9 khu cảnh, trong đó Phổ Tế Thiền Tự là ngôi chùa lớn nhất trên đảo, nhiều du khách cho rằng đây là nơi cầu tình duyên linh ứng nhất. Phổ Tế Thiền Tự còn được gọi là Tiền Tự (chùa trước) là nơi thường xuyên cử hành các hoạt động về Phật giáo, nơi đây nhang khói luôn thịnh vượng, cả ngôi tự được xây theo thế núi. Có sân sảnh rộng, phía trước còn có hồ nước, mùa hè bông súng đua nhau nở, đây là cụm cảnh được xếp vào 12 cảnh đẹp của Phổ Đà "Liên Trì Dạ Nguyệt". Khách đến đây hương khói tấp nập mỗi ngày, bất kể mưa nắng hay ngày thường. Để có thể tham quan Phổ Đà Sơn và viếng thăm những ngôi chùa tại đây du khách có thể tham khảo thông tin Vé máy bay giá rẻ đi Hàng Châu Trung Quốc – Vemaybay123.vn. Trong chùa có 8 điện lớn thờ Quan Âm Chân Thân (cầu gia đạo bình an), Văn Thù Bồ Tát (cầu học vấn, trí tuệ), bồ tát Phổ Hiền (cầu công việc thuận lợi), Phật A-di-đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Dược Sư (cầu gia đạo bình an), Địa Tạng Bồ Tát (cầu sức khoẻ người lớn trong nhà, cầu cho kẻ vong sinh cực lạc), Quan Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn (cầu tình duyên), Ca Lan Bồ Tát (cầu Tài), Vỹ Đà và Di Lạc (cầu gia đạo bình an, xuất nhập bình an). Đến Phổ Đà Sơn ngoài việc viếng cảnh chùa du khách còn được ngắm những loại hoa tuyệt đẹp như mẫu đơn, bạch ngọc lan, tử ngọc lan... và trải nghiệm những cung đường biển tuyệt đẹp, tham gia những trò chơi biển. Vào ban đêm đừng quên cùng bạn đồng hành lang thang trên những con đường vắng bóng người, hít căng lồng ngực không khí trong lành, yên tĩnh trên đảo. Cũng trong thời điểm này, hệ thống đèn dưới chân tượng Quan Âm Bồ Tát cao nhất đảo bật sáng, khiến cho không gian càng kỳ ảo và huyền hoặc. Du khách Mua vé máy bay nội địa Trung Quốc đến thăm Phổ Đà Sơn cũng có thể vào làng, tìm hiểu cuộc sống, sinh hoạt của người dân địa phương, ngắm những ngôi nhà hơn 100 năm tuổi. Du khách hãy ghé nhà hàng, quán ăn của người dân, thưởng thức món ngon, nhớ lưu ý rằng nơi này vừa là đảo, vừa là một trong những điểm hành hương nổi tiếng của Trung Quốc, lượng khách đông, mức giá thường bị đẩy lên cao, du khách nên hỏi giá trước để không bị chặt chém. Ở Thành Đô thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên có một ngôi đền nổi tiếng, suốt ngày nghi ngút khói hương, được nhiều du khách tới tham bái, đó là đền Vũ Hầu. Đọc Tam Quốc chí, người ta ngậm ngùi thương cảm cho giấc mộng phục hưng nhà Hán không thành của Khổng Minh Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị. Tháng 8 năm 234, sau khi mất do bị bệnh lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi Khổng Minh được phong tặng là Trung Vũ Hầu và được an táng trên ngọn Định Quân sơn ở vùng Hán Trung. Sau khi kết thúc cuộc phân tranh Tam quốc người dân nhiều nơi đã lập đền thờ vị thừa tướng thanh liêm, tài trí của họ. Chỉ riêng vùng đất Thục xưa đã có đến 40 đền thờ Khổng Minh, tuy nhiên trong số đó Đền Vũ Hầu thánh địa Tam Quốc tại Thành Đô vẫn là nổi tiếng hơn cả. Đền Vũ Hầu là một quần thể di tích gồm Hán Chiêu Liệt miếu (đền thờ Lưu Bị), Huệ Lăng (lăng mộ Lưu Bị) và đền thờ Gia Cát Lượng. Ban đầu đền thờ và lăng mộ của Lưu Bị được xây dựng vào năm 223 ngay sau khi ông qua đời. Sau này Lý Hùng, vua nước Thành Hán (tại vị từ năm 303 - 334), cho xây dựng thêm Vũ Hầu từ trong khuôn viên này để thờ Gia Cát Lượng. Ngôi đền bị cháy trong thời kỳ chiến tranh cuối thời nhà Minh, khi loạn quân của Trương Hiến Trung tiến vào Thành Đô năm 1644; sau đó đền được trùng tu trong những năm 1671 - 1672 dưới thời hoàng đế Khang Hy nhà Thanh. Năm 1961 đền được công nhận là di tích trung tâm cấp Quốc gia của Trung Quốc. Đền Vũ Hầu có diện tích hơn 15.000m2 gồm 3 gian: gian bên ngoài thờ Thục chúa Lưu Bị, gian giữa thờ Khổng Minh và gian cuối thờ 3 anh em Lưu - Quan - Trương, phía sau đền là khu hậu viên bán đồ lưu niệm. Khu di tích có 5 cổng, các cổng chạy từ bắc đến nam, du khách có thể dễ dàng nhìn từ cổng bên này sang cổng bên kia. Bước vào trong du khách sẽ bắt gặp ngay hai bức thư pháp được khắc trên 37 phiến đá, mỗi phiến cao 63cm rộng 58cm, là Tiền xuất sư biểu và Hậu xuất sư biểu của Gia Cát Lượng. Bước qua cổng đầu tiên có tấm bảng “Minh lương thiên cổ” (nghĩa là "Vua sáng tôi hiền còn lưu danh thiên cổ"). Đây là khu ngoài, ở những dãy nhà hành lang phía đông và tây đặt 47 bức tượng của những vị tướng quan trọng nhà Thục Hán đã giúp Lưu Bị xây dựng triều chính. Hành lang phía bên trái là quan văn, bên phải là quan võ; dưới mỗi bức tượng đều ghi tên họ và những chiến công tiêu biểu của từng người. Những bức tượng màu sắc sống động, biểu cảm cường điệu, với những đôi mắt lớn nhìn thẳng xuống du khách; một số bức tượng còn có cử chỉ rõ ràng. Biểu cảm bộ mặt giống như trên những chiếc mặt nạ của Xuyên Kịch nổi tiếng – có khả năng biến diện, lật chuyển bộ mặt độc đáo. Giữa cổng trước và cổng thứ hai là 6 bức bia đá cao khoảng 3m, trong số đó nổi tiếng nhất là Bia tam tuyệt, bao gồm 3 di sản lịch sử giá trị của Trung Quốc: một bài thơ của Bùi Độ (một trọng thần phục vụ qua bốn triều đại Hiến, Mục, Kính, Văn); một bức thư pháp của Liễu Công Xước và một bản in khắc bởi bậc thầy nghề thủ công chạm khắc Lỗ Kiến. Xem thêm: Vé máy bay đi Tây An Trung Quốc Qua cổng thứ hai là đền thờ Lưu Bị, trước cổng treo một tấm biển lớn đề 4 chữ “Hán Chiêu Liệt Miếu” (nghĩa là "miếu thờ vua Chiêu Liệt nhà Hán"). Đền thờ Lưu Bị được xây cao hơn những đền khác trong Vũ Hầu từ, với một bệ chạm trổ hình rồng và mây ở phía trước, thể hiện địa vị hoàng đế của Lưu Bị cao hơn so với những tướng khác. Bên trong đền du khách có thể chiêm ngưỡng bức tượng Lưu Bị mạ vàng cao 3m ở chính giữa, tuy nhiên đây không phải là chân dung thật mà chỉ là hình ảnh tưởng tượng lấy từ sách vở. Bên phải đền thờ Lưu Bị là tượng Trương Phi cùng con và cháu bên cạnh. Tượng Quan Vũ và con trai Quan Bình cùng bộ tướng Chu Thương nằm ở gian bên trái. Ra khỏi đền thờ Lưu Bị và đi qua một sảnh nhỏ là đến đền thờ Gia Cát Lượng, Đền thờ Gia Cát Lượng thấp hơn một chút so với đền thờ Lưu Bị. Bên trong đặt bức tượng Gia Cát Lượng mạ vàng, tay cầm chiếc quạt lông ngỗng. Trong văn học và nghệ thuật, Gia Cát Lượng được mô tả là trân quý chiếc quạt lông vũ như viên ngọc, lúc nào cũng cầm trên tay như hình với bóng. Bất kể xuân hạ thu đông, Gia Cát Lượng đều lay động nhẹ cái quạt, thể hiện sự tự tin bình thản, ung dung tự tại, luôn nắm chắc phần thắng. Phía trước tượng là ba chiếc trống đồng trang trí họa tiết hoa lá được cho là trống trận của Gia Cát Lượng. Đi qua một lối đi yên tĩnh với hai bên tường sơn đỏ rợp bóng trúc râm mát là lăng mộ của Lưu Bị, còn gọi là Huệ Lăng. "Huệ" trong tiếng Trung có nghĩa là "điều tốt". Trong tín ngưỡng của người Trung Quốc, vị trí của lăng mộ vô cùng quan trọng. Người ta tin rằng nếu như tổ tiên được an táng tại vùng đất có phong thủy tốt thì con cháu sẽ phát đạt, thịnh vượng. Gia Cát Lượng đích thân chọn vị trí của Huệ Lăng, trước cửa lăng có tấm biển ghi 4 chữ “Thiên thu lẫm nhiên” (Nghìn thu sau còn khiến cho người ta kính sợ), lấy từ một câu trong bài thơ “Thục Tiên Chủ miếu” của nhà thơ Lưu Vũ Tích đời Đường. Qua khỏi cửa lăng là tấm bia “Hán Chiêu Liệt hoàng đế chi mộ” được dựng vào năm Càn Long thứ 53, đây là một lăng mộ tập thể an táng cùng Lưu Bị là hai người vợ - Cam phu nhân và Ngô phu nhân. Tam Nghĩa miếu là nơi tưởng niệm tình huynh đệ của Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi. Ở lối vào miếu hai bên có hình khắc vào đá những sự tích anh hùng của ba anh em Lưu Quan Trương như Tam anh chiến Lã Bố, Quan Công đơn đao phó hội, Trương Dực Đức giận đánh đốc bưu... Sau khi thăm đền Vũ Hầu, du khách không nên bỏ qua cơ hội dạo quanh phố cổ Cẩm Lý bởi vẻ đẹp cổ kính độc đáo rất Trung Hoa của nó. Trải dài hơn 500m phố cổ Cẩm Lý nhộn nhịp sầm uất từ thời nhà Thanh, du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp quyến rũ của những tòa nhà cổ và tìm các cửa hàng bán đồ lưu niệm thủ công, tương phản với quán bar và nhà hàng hiện đại bên cạnh. Hơn nữa du khách có thể thưởng thức hương vị trà Tứ Xuyên và Xuyên kịch, bên cạnh đó những món ăn đa dạng bán ở những cửa hàng nhỏ bên lề đường sẽ cho du khách trải nghiệm thú vị về ẩm thực Tứ Xuyên. Đền Vũ Hầu và phố cổ Cẩm Ly dường như vẫn còn lưu giữ những giá trị tinh thần vẹn nguyên từ thời Tam quốc. Dạo quanh chiêm ngưỡng những bức tượng sống động và thưởng thức vị cay cay nơi đầu lưỡi của ẩm thực Tứ Xuyên là một trải nghiệm không thể nào bỏ qua khi đặt Vé máy bay giá rẻ nhất đi Trung Quốc đến với kinh đô của nhà Thục Hán khi xưa. Trước đây cây cầu kính Shiniuzhai này vốn là một cây cầu gỗ, kết nối hai đỉnh núi nằm trong diện tích của một công viên địa chất. Năm 2014 một đoạn cầu đã được thay thế bằng kính và đã thu hút rất đông khách du lịch, điều này đã khiến cho người ta nảy ra ý tưởng biến cả cây cầu trở thành cầu kính dài nhất thế giới tại Trung Quốc để hấp dẫn khách tham quan. Sau nhiều tháng thi công, giờ đây cây cầu gỗ đã được thay đổi diện mạo hoàn toàn và trở thành cây cầu treo bằng kính đầu tiên và dài nhất thế giới. Đứng trên cầu du khách có thể quan sát toàn cảnh công viên địa chất tỉnh Hồ Nam cùng cảnh quan rợn ngợp bên dưới cây cầu. Khi bắt đầu đưa vào hoạt động, một nhóm du khách dũng cảm đã có được trải nghiệm… “chóng mặt, hoa mày” khi trở thành những du khách đầu tiên bước đi trên cây cầu treo lợp kính trong suốt. Cây cầu được bắc ở độ cao 180m và chạy dài 300m, cây cầu thử thách “thần kinh thép” này hiện là cây cầu kính dài nhất thế giới. Nhiều du khách khi bước đi trên cầu với sự run rẩy và sợ hãi khi nhìn xuống dưới chân chỉ thấy một lớp kính trong suốt tưởng như vô cùng mỏng manh, từ độ cao “rùng rợn”, khiến cho bất cứ ai cũng cảm thấy choáng ngợp. Một số du khách thậm chí còn bám vào thành cầu thật chặt, không dám bước đi thêm nữa hoặc chỉ rón rén bước đi từng bước. Ở độ cao 180m du khách sẽ có được một tầm nhìn trọn vẹn về quang cảnh rợn ngợp nhìn từ tầm cao ở một vùng núi non hiểm trở của tỉnh Hồ Nam Trung Quốc. Cây cầu vừa được khánh thành đã khiến cho những du khách đầu tiên bước lên cầu không tránh khỏi sợ hãi. Tính trung bình du khách sẽ phải bước đi gần 1.000 bước chân (cầu dài 300m) thì sẽ băng qua cầu, từ đầu này sang đầu kia. Phía dưới họ là cảnh quan núi non hiểm trở, nhìn từ độ cao 180m. Để đảm bảo cho mức độ trong suốt của kính, du khách được yêu cầu đi một loại giày vải để giữ vệ sinh. Trong những năm gần đây những công trình bằng kính được thực hiện ở độ cao chóng mặt bỗng trở nên vô cùng được yêu thích tại Trung Quốc, những công trình này cho phép du khách có thể trải nghiệm cảm giác mạo hiểm, trong đó có thể kể đến những cây cầu như: Cầu kính trên núi Yuntai tỉnh Hà Nam khai trương ngày 20/9/2015, tuy nhiên đã phải tạm thời đóng cửa chỉ sau một tháng hoạt động khi xảy ra sự cố xuất hiện vết nứt trên mặt kính khiến cho nhiều du khách hoảng sợ. Theo đại diện của điểm tham quan núi Yuntai, kính nứt do một du khách làm rơi chiếc ca bằng inox xuống sàn. Mặt cầu làm từ 3 lớp kính và chỉ một lớp bị nứt. Cầu kính trong công viên Mỏ quốc gia ở thành phố Tongren, tỉnh Quý Châu. Đây là cầu kính đầu tiên được xây dựng tại tỉnh này, mở cửa đón du khách từ tháng 10/2015. Cầu kính nằm cheo lên trên sườn núi ở độ cao 100m với khung cầu bằng bê tông, rộng 1,6m. Cầu kính trên núi Thiên Môn, Hồ Nam với độ cao hơn 1000m, dài hơn 60m và rộng khoảng 1m. Du khách được yêu cầu phải có lớp bọc giày trước khi bước lên con đường kính, cây cầu này cũng là một trong Những địa điểm tham quan nổi tiếng ở Hồ Nam mà du khách nên dành thời gian ghé thăm và trải nghiệm một lần trong đời. Thang máy bằng kính được xây dựng tại tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc) cho phép du khách lên tới đỉnh núi một cách nhanh chóng nhất. Thang máy này được xây dựng cạnh một vách núi và có độ cao ở đỉnh là 1.080m so với mực nước biển. Đài quan sát Trùng Khánh được thực hiện ở thành phố Trùng Khánh, trở thành đài quan sát bằng kính lớn nhất Châu Á. Đài quan sát này có độ cao 718m so với mặt đất. Cầu kính ở công viên địa chất quốc gia Longgang, Trùng Khánh: Đây là đường đi bộ dài nhất thế giới rộng 26m, nằm trên độ cao 718m. Chính phủ Trung Quốc đã tốn khoảng 5,6 tỷ USD để xây đường đi bộ dài 5m này, "soán ngôi" của biểu tượng đường kính ở Grand Canyon, bang Arizona, Mỹ. |
|