Cổ thành Lạc Dương - nơi đã từng là kinh đô của 9 triều đại phong kiến, đồng thời là cái nôi văn minh của Trung Quốc, là nơi đầu tiên Phật giáo truyền vào Đông Độ, nơi có cơ sở viện tự đầu tiên của Phật Giáo Bắc truyền và chứa bộ kinh dịch đầu tiên tại Trung Quốc. Và Bạch Mã Tự - ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Trung Hoa là nơi lưu giữ 3 dấu ấn quan trọng trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Bạch Mã Tự ngày nay cách thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc 9km. Đó là nơi được các môn sinh Phật gia công nhận là nơi ở của tổ sư Phật giáo và là nơi Phật Pháp được truyền dạy. Ngôi chùa được Hán Minh Đế (29-75 SCN) xây dựng, và có một huyền thoại về việc ra đời của ngôi chùa này. Theo sử sách ghi chép vào thời Đông Hán, niên hiệu Vĩnh Bình, Hán Minh Đế chiêm bao thấy ở một nơi phong cảnh nên thơ có một vị Thần lấp lánh ánh vàng kim bay đến cung điện của ông. Nhà Vua bèn triệu các cận thần của mình đến để hỏi về ý nghĩa giấc mơ của ông. Đại thần Phó Nghị tâu rằng: “Vào ngày mùng 8 tháng Tư, năm thứ 24 thời Chu Chiêu Vương (tức là năm 971 TCN) triều đại nhà Chu, núi sông chấn động, các dòng sông đều cuộn lũ. Buổi tối có những ánh hào quang ngũ sắc chiếu lấp lánh ở phía trời Tây.” Vị Thái sử họ Tô suy đoán rằng đây là dấu hiệu sản sinh của một vị đại thánh nhân ở Tây phương Thiên quốc. “Vị đại thánh nhân này xuống trần gian là để cứu khổ cứu nạn cho con người, theo những lời răn dạy của Ngài sau 1.000 năm thì có thể truyền vào đất nước chúng ta; Giờ đây khi 1.000 năm đã trôi qua và đã đến lúc, hạ thần nghe nói có một vị thánh nhân ở Tây Vực, được người đời kính trọng gọi là “Phật”, đấy có thể là vị ‘Phật’ mà Bệ hạ chiêm bao thấy”. Năm sau Hán Minh Đế lại hạ chiếu chỉ xây dựng một tòa chi viện ở ngoài cửa Ung Môn của Lạc Dương. Chữ “tự” có nghĩa gốc là "quan thự", tuy nhiên vì Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan mới lần đầu đến ở “tự”, và họ cũng là khách ngoại quốc nên nơi ở mới của họ vẫn được gọi là “tự” cho long trọng. Bắt đầu từ đó chùa được gọi là “tự” trong tiếng Trung Quốc, thêm vào đó có một chú ngựa trắng đã mang về toàn bộ kinh Phật và tượng Phật, và để ghi nhớ công lao của chú ngựa trắng đó, tu viện mới được đặt tên là "Bạch Mã Tự", hay "Chùa Ngựa Trắng". Dưới sự trị vì của Hoàng hậu Võ Tắc Thiên (624- 705) thời nhà Đường, Bạch Mã Tự vô cùng nổi tiếng, và có tới hơn 1.000 hòa thượng cư ngụ tại đó. Tuy nhiên chùa đã bị tàn phá nghiêm trọng trong thời An Sử nổi loạn (755- 763) và suốt thời Hội Xương diệt Phật (840- 846), di tích chùa Bạch Mã còn sót lại chỉ là những mảnh vụn bia văn bằng đá và đống đổ nát. Ngôi chùa sau này đã được hoàng đế Thái Tông triều Tống (939-997), hoàng đế Gia Tĩnh triều Minh (1507- 1567) và hoàng đế Khang Hy triều Thanh (1662- 1722) cho sửa chữa lại. Ngày nay khi đến thăm ngôi chùa cổ này du khách dễ dàng nhận thấy được hương sắc thời gian đã bám chặt lên từng mái ngói, vách tường, lối đi của ngôi cổ tự ngàn năm tuổi. Tuy đã rất lâu rồi nhưng ngôi tổ đình vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn cấu trúc và những bộ kinh kệ quý báu. Bạch Mã Tự được bao bọc bởi một khu vườn ngập tràn màu xanh thanh bình và yên tĩnh, len giữa hàng cây là một con đường lát đá dẫn vào chùa. Cổng chùa được xây dựng theo kiểu tam quan với 3 cửa hình mái vòm thông suốt, bên trên có khắc ba chữ lớn “Bạch Mã Tự”, hai bên chùa có cặp tượng sư tử đá màu xanh đậm hướng ra ngoài. Kế bên đó là bức tượng ngựa trắng được làm từ đá bạch ngọc, kỷ niệm chiến tích một ngựa thồ kinh trên con đường xa xôi về đất nước. Chùa Bạch Mã rộng 47.840 m2 và có hơn 100 gian điện đường thờ phụng, các điện lớn được đặt trên một đường trung tâm chạy theo hướng Bắc-Nam, và từ cửa vào trong theo hướng núi theo thứ tự như sau: Thiên Vương điện, Đại Phật điện, Đại Hùng bảo điện, Tiếp Dẫn điện, và Phật điện Bì Lô các. Ở giữa chính điện, nghĩa là Đại Phật điện để thờ cúng là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi nghiêm trang trên đài sen, tay phải cầm nhẹ bông hoa, hai bên phải trái của Ngài có hai đệ tử Ca-Diếp và A-Nan đứng hầu, và hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền ngồi đó, với hai thiên nữ đứng hầu đằng sau. Tại góc Đông Nam của Đại Phật điện, có treo một quả chuông sắt từ triều đại nhà Minh, nặng khoảng 5.525 cân Anh. Người ta nói rằng vào những đêm có gió nhẹ thổi hoặc buổi sáng sớm mát mẻ, tiếng chuông chùa Bạch Mã có thể truyền đi hàng chục dặm, và quả chuông lớn treo trên gác chuông ở con đường phía Đông thành nội cũng có thể cộng hưởng mà vang tiếng cùng với nó; bởi thế cảnh tượng có thể miêu tả như là “Chuông chùa vang vọng Phạm Vương cung, hạ thông Địa phủ chấn u linh.” Sau Đại Phật điện là tới Đại Hùng Bảo điện, nơi thờ cúng ba vị Phật của tam thế là Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà và Phật Dược Sư. Hai bên có 18 vị La Hán chia ra đứng hầu, với tư thế và điệu bộ khác nhau. Các bức tượng La Hán này là vô cùng quý giá bởi vì chúng được đúc một cách tinh xảo, sử dụng chất liệu lụa và sợi gai dầu có từ thời nhà Nguyên (1271 - 1368). Tiếp theo Đại Hùng điện là Tiếp Dẫn điện, và cuối cùng là Phật điện Bì Lô Các, Phật điện Bì Lô các được xây dựng vào thời nhà Đường (618- 907), là nơi thờ Phật Bì Lô. Pháp thân thanh tịnh của Phật Thích Ca Mâu Ni cùng Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền đứng bên cạnh, trên bia đá phía sau Bì Lô các có khắc "Tứ Thập Nhị Chương Kinh". Phía Đông Bắc và Tây Nam của chùa Bạch Mã là mộ phần của hai vị Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, khoảng 200m về phía Đông Nam từ ngôi chùa là Bảo tháp Tề Vân được xây bằng gạch có 13 tầng cao khoảng 20m. Ban đầu tháp được đặt tên là Thích Ca Xá Lợi tháp, Kim Phương tháp, hay Bạch Mã Tự tháp; nó được xây dựng vào thời nhà Đường sau đó bị phá hủy trong thời nhà Tống, và rồi được trùng tu lại trong thời nhà Kim (1115- 1234). Điều đặc biệt ở tòa tháp này khi du khách đứng trong phạm vi xung quanh tháp vỗ tay thì sẽ có âm thanh vọng lại nghe như tiếng ếch kêu nên tháp này vô cùng nổi tiếng. Vì ngày xưa đứng trên tháp Tề Vân có thể trông thấy thành Lạc Dương bởi thế tên tháp được đặt với ý nghĩa cao ngang trời. Ở hậu viện có một ngôi đài các tên là Thanh Lương Đài, cao khoảng bốn trượng, chu vi hơn năm mươi trượng, đứng ở rìa phía Bắc của nội tự. Đây là nơi chứa kinh của chùa Bạch Mã. Ở giữa đài có Tỳ Lô Các lầu với tượng Phật Tỳ lô Giá Na và tượng Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Phía trước là một pho tượng Phật làm bằng ngọc do Miến Điện dâng, ở vách phía tây có tượng Đạt Ma Sư Tổ đắp nổi. Ở mảng tường phía bắc có chạm khắc bộ kinh “Tứ thập nhị chương” trên đá, đây chính là bộ kinh khi xưa được lần đầu tiên đưa đến Trung Quốc. Nền văn hóa Trung Quốc ngày nay được ghi nhận với một khối lượng đồ sồ về số lượng cũng như sự đa dạng và phong phú về nội dung, được đánh giá cao với những tinh hoa văn hóa được ca ngợi từ ngàn năm qua. Cùng với Ấn Độ, Trung Quốc là cái nôi của những giá trị văn hóa Phật giáo vô cùng đặc sắc và thâm sâu, việc ngôi Tổ đình Bạch Mã Tự vẫn còn vững vàng qua sự biến chuyển của thời gian và thế sự như một chứng tích cho sự trường tồn và phát triển của nền văn hóa Phật giáo nước nhà. Nếu có dịp du lịch Trung Quốc, du khách đừng quên dành thời gian đến thăm ngôi cổ tự lừng danh này, tham khảo thông tin Vé máy bay sang Trung Quốc bao nhiêu tại đây để chuẩn bị thật tốt cho chuyến đi của mình trong thời gian tới nhé.
0 Comments
Đền LamaTọa lạc tại phía Bắc thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc, Lama (Lạt Ma) là một ngôi đền của nền Phật giáo Tây Tạng đã có lịch sử tồn tại hơn 300 năm. Đây là một trong những ngôi chùa Tây Tạng lớn nhất và quan trọng ở bên ngoài lãnh thổ Tây Tạng. Ngôi đền được xây dựng theo phong cách Hán - Tạng với quy mô bề thế và kiến trúc ấn tượng, sắc màu chủ đạo của ngôi chùa là đỏ và vàng, với những họa tiết trang trí vô cùng cầu kỳ. Trong đền có nhiều gian điện thờ và nhiều tượng Phật quý, trong đó có tượng Phật bằng gỗ cao tới 18m. Về lịch sử, ban đầu đền Lama là cung Ung Hòa được xây năm 1694 để làm nơi ở của các quan trong triều nhà Thanh, sau này công trình được chuyển thành cung của hoàng đế Ung Chính, con vua Khang Hy khi còn là hoàng tử. Khi Ung Chính lên ngôi, để phục vụ như cầu bang giao giữa nhà Thanh và Tây Tạng, một phần cung điện được chuyển thành tu viện của Phật giáo Tây Tạng. Kể từ đó đền Lama trở thành nơi tu học của những nhà sư theo Phật giáo Tây Tạng, cũng như là nơi tiếp đón các phái đoàn đến từ Tây Tạng. Ngày nay đền Lama là một trong những ngôi đền thắng cảnh nổi tiếng của Bắc Kinh thu hút nhiều khách du lịch khi ghé thăm Trung Quốc. Khi viếng thăm đền Lama thì du khách có thể đi dạo xung quanh ngắm nhìn và cảm nhận bầu không khí linh thiêng hoặc là ngồi cầu nguyện với những tu sĩ trong đền thờ để giải toả tâm trạng, thư thái đầu óc. |
Archives
April 2021
Categories
All
|