Du lịch Trung Quốc tìm hiểu Giang Tây, là một tỉnh nằm ở đông nam cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Giang Tây trải dài từ bờ Trường Giang ở phía bắc tới những khu vực cao hơn ở phía nam và phía đông, tỉnh có ranh giới giáp với An Huy ở phía bắc, Chiết Giang ở phía đông bắc, Phúc Kiến ở phía đông, Quảng Đông ở phía nam, Hồ Nam ở phía tây, và Hồ Bắc ở phía tây bắc. Tên gọi "Giang Tây" bắt nguồn từ tên một đạo dưới thời nhà Đường được lập vào năm 733, Giang Nam Tây đạo (đạo phía tây Giang Nam). Giản xưng của Giang Tây là Cám, theo tên sông Cám chảy từ phía nam lên phía bắc tỉnh rồi đổ vào Trường Giang. Giang Tây cũng được gọi là "Cám Bà đại địa" nghĩa là "vùng đất lớn của sông Cám và hồ Bà Dương". Giang Tây có núi bao quanh ba mặt, ở phía tây là các dãy núi Mạc Phụ, Cửu Lĩnh, và La Tiên; ở phía đông là những dãy núi Hoài Ngọc và Vũ Di; còn ở phía nam là những dãy núi Cửu Liên và Đại Dữu Lĩnh. Phần trung bộ và nam bộ của Giang Tây là các gò đồi và thung lũng nằm rải rác, núi và gò đồi chiếm đến 60% diện tích của tỉnh; trong khi bắc bộ thì bằng phẳng và có cao độ thấp, gọi là đồng bằng hồ Bà Dương. Đỉnh cao nhất Giang Tây là Hoàng Cương Sơn thuộc dãy núi Vũ Di, trên vùng ranh giới giáp với Phúc Kiến có cao độ 2.157 mét. Sông Cám là sông chính tại Giang Tây, sông dài 991 km và chảy từ nam lên bắc, Sông Cám đổ vào hồ Bà Dương, hồ nước ngọt lớn nhất tại Trung Quốc; nước trong hồ này lại đổ vào Trường Giang, con sông tạo thành ranh giới phía bắc của Giang Tây. Các sông quan trọng khác đổ vào hồ Bà Dương là sông Phủ, sông Tín, sông Bà và sông Tu, những hồ chứa nhân tạo trọng yếu của Giang Tây là hồ chứa Chá Lâm trên sông Tu ở phía tây bắc và hồ chứa Vạn An ở thượng du sông Cám. Giang Tây có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, với mùa đông ngắn, mát và ẩm cùng mùa hè rất nóng và ẩm ướt, nhiệt độ không khí trung bình là 3 đến 9 °C vào tháng 1 và 27 tới 30 °C vào tháng 7. Lượng giáng thủy hàng năm là 1.200 tới 1.900 mm, phần lớn bắt nguồn từ các cơn mưa lớn vào cuối mùa xuân và mùa hè. Tính tới năm 2007 Giang Tây đã thành lập được 137 khu bảo tàng thiên nhiên, bao gồm 6 khu bảo tàng cấp quốc gia, tổng diện tích là 9.852,3 km², chiếm 5,9% diện tích của tỉnh. Kinh Tế Theo kết quả sơ bộ năm 2010 tổng GDP của Giang Tây đạt 943,5 tỉ NDT, đứng thứ 19 cả nước, tính theo giá cả thì tăng trưởng 14% so với năm trước. Trong đó khu vực 1 của nền kinh tế đạt trị giá 106,04 tỉ NDT, tăng trưởng 4,8%, chiếm tỷ trọng 16,4% trong GDP; khu vực hai của nền kinh tế đạt trị giá 341,49 tỉ NDT, tăng trưởng 16,6%, chiếm tỷ trọng 52,7% trong GDP; khu vực ba của nền kinh tế đạt trị giá 200,5 tỉ NDT, tăng trưởng 10,1%, chiếm tỉ trọng 30,9%. Thu nhập bình quân của cư dân thành phố là 15.481 NDT, tăng trưởng 10,4%; thu nhập thuần của nông dân là 5.789 NDT, tăng trưởng 14,1%. Trong số các tỉnh thị, tốc độ phát triển kinh tế của Giang Tây ở mức trung bình, song tổng giá trị kinh tế thì khá nhỏ, nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân của tỉnh Giang Tây. Trong 29 năm từ 1979-2007, tổng GDP của Giang Tây đã tăng lên 62,86 lần, còn theo giá cả so sánh, tốc độ phát triển GDP bình quân hành năm là 9,4%, thấp hơn mức bình quân 9,8% của cả nước. So với những tỉnh ven biển lân cận là Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông, thì Giang Tây là một tỉnh nghèo. Lúa là cây trồng chủ đạo tại Giang Tây, những loại cây thường trồng khác là bông và cải dầu, chè, mao trúc, thông sam. Giang Tây dẫn đầu về sản xuất kim quất tại Trung Quốc, đặc biệt là ở thị xã Toại Xuyên, Giang Tây giàu tài nguyên khoáng sản, dẫn đầu trong số những tỉnh của Trung Quốc về trữ lượng đồng, volfram, vàng, bạc, urani, thori, tantali, niobi. Các trung tâm khai mỏ đáng chú ý là Đức Hưng (đồng) và Đại Dư (volfram), Gốm sứ Cảnh Đức Trấn nổi tiếng toàn quốc. Đặc biệt Vụ Nguyên biến thành thiên đường du lịch cho du khách vào mùa xuân với những ngọn núi đồng bằng hoa cải vàng, thu hút du khách cả trong và ngoài nước. Nơi đây trở thành một trong những địa điểm ngắm hoa đẹp nhất khi du lịch Trung Quốc vào mùa xuân. Nhân khẩu Tuyệt đại đa số cư dân Giang Tây là người Hán, chiếm trên 99,7% dân số, các phân nhóm Hán chính tại Giang Tây là người Cám và người Khách Gia. Những nhóm thiểu số có số lượng đáng nói là người Hồi, người Xa và người Choang, Hồ Nam và Giang Tây là 2 tỉnh mất cân bằng giới tính lớn nhất tại Trung Quốc, theo nghiên cứu của BMJ dựa theo số liệu năm 2005, tỷ lệ bé trai/bé gái trong nhóm tuổi từ 1-4 tại Giang Tây là trên 140/100. Cư dân Giang Tây chủ yếu nói tiếng Cám, một bộ phận nói tiếng Khách Gia, tiếng Huy, tiếng Ngô và Quan thoại. Tiếng Cám là một trong những phương ngữ lớn, số người sử dụng ước đạt 51 triệu, ngôn ngữ này được nói tại trên 60 huyện thị tại Giang Tây, phạm vi bao trùm Nam Xương, Cảnh Đức Trấn (khu thành phố), Bình Hương, Nghi Xuân, Phủ Châu và Cát An, tiếng Khách Gia được nói ở Cám Châu.
0 Comments
An Huy là một tỉnh của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nằm ở Hoa Đông và trải dài trên những đồng bằng Trường Giang và Hoài Hà, An Huy giáp với Giang Tô ở phía đông, Chiết Giang ở phía đông nam, Giang Tây ở phía nam, Hồ Bắc ở phía tây nam, Hà Nam ở phía tây bắc, và giáp với Sơn Đông trên một đoạn nhỏ ở phía bắc. Vào đầu thời Thanh, An Huy tỉnh Giang Nam, đến năm Khang Hi thứ 6 (1667), triều đình đã tách tỉnh Giang Nam thành tỉnh Giang Tô và An Huy. Tên gọi "An Huy" bắt nguồn từ tên của 2 thành phố phía nam của tỉnh là An Khánh và Huy Châu (nay là Hoàng Sơn) Địa Lý An Huy giáp với những tỉnh Sơn Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Bắc và Hà Nam. Địa hình An Huy chủ yếu là đồng bằng và gò đồi, đồng bằng, gò đồi và núi thấp tại An Huy nằm xen kẽ nhau. Trường Giang và Hoài Hà chảy từ tây sang đông An Huy có chiều dài tương ứng là 416km và 430km. Toàn An Huy có thể được phân thành năm khu vực tự nhiên: đồng bằng Hoài Bắc, vùng đồi Giang Hoài, vùng Đại Biệt Sơn ở Hoản Tây, vùng đồng bằng ven sông Trường Giang và vùng núi Hoản Nam. Vùng đồng bằng chiếm 31,3% diện tích An Huy (bao gồm 5,8% đất cải tạo), gò đồi chiếm 29,5% diện tích, núi non chiếm 31,2% diện tích, các hồ và đầm lầy chiếm 8% diện tích. Những dãy núi chủ yếu tại An Huy gồm Đại Biệt Sơn, Hoàng Sơn, Cửu Hóa Sơn, Thiên Trụ Sơn. Đỉnh cao nhất là đỉnh Liên Hoa thuộc Hoàng Sơn có cao độ 1.860 mét, được xem là chốn bồng lai tiên cảnh với nhiều núi đá có hình thù kỳ lạ. Vùng đồng bằng Hoản Bắc bao gồm khu vực rừng lá rộng rụng lá bán hạn bình nguyên Hoa Bắc ở bờ bắc Hoài Hà và khu vực đất ngập nước ở bờ nam Hoài Hà. Vùng đồng bằng Hoản Bắc này có địa thế bằng phẳng và rộng rãi, thuộc khu vực phía nam của bình nguyên Hoa Bắc. Vùng đồng bằng Hoản Bắc có độ cao khoảng 20-50 mét so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, các chi lưu phía bắc của Hoài Hà chảy theo hướng đông nam rồi nhập vào Hoài Hà và hồ Hồng Trạch. Phía bắc của vùng đồng bằng Hoản Bắc chịu ảnh hưởng từ những trận lụt của Hoàng Hà nên ngày nay có lớp trầm tích sâu, do được tiến hành khai khẩn nông nghiệp từ rất lâu nên ngày nay vùng đồng bằng Hoản Bắc đã không còn thảm thực vật tự nhiên, hiện chỉ có những loài do con người trồng như trắc bách, dương, liễu, hông, dương hòe, du. Ở phía nam, địa hình không được bằng phẳng như ở phía bắc, Đại Biệt Sơn chiếm hầu hết khu vực tây nam An Huy và một loạt những đồi và dãy núi cắt qua phần đông nam, Trường Giang chảy qua An Huy giữa hai vùng đồi núi này. Cùng với địa hình, khí hậu của An Huy cũng có sự khác biệt giữa bắc và nam, phía bắc có khí hậu ôn hòa hơn và những mùa rõ rệt hơn. Nhiệt độ trung bình năm tại An Huy là 16-18 °C, chênh lệc bắc-nam là khoảng 2°C; nhiệt độ trung bình vào tháng 1 là khoảng từ -1 °C đến 2 °C ở phía bắc Hoài Hà và từ 0 °C đến 3 °C ở phía nam Hoài Hà; nhiệt độ trung bình vào tháng 7 là khoảng 27 °C hoặc cao hơn. Lượng mưa trung bình hàng năm của An Huy là 800-1.600mm, các cơn mưa lớn xuất hiện vào tháng 6 và tháng 7 và có thể dẫn đến lũ lụt, An Huy có trung bình 1.800-2.500 giờ nắng mỗi năm, và có 200-250 ngày không có sương. An Huy có trên 2.000 sông suối, hơn 110 hồ, các con sông quan trọng tại An Huy là Trường Giang, Hoài Hà, Tân An Giang; những hồ quan trọng của An Huy là hồ Sào, hồ Long Cảm và hồ Nam Y; hồ Sào sở hữu diện tích bề mặt 800 km² là một trong năm hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc. Tổng lượng tài nguyên nước của An Huy là 68 tỉ m³, chủ yếu là tại những sông thuộc lưu vực Hoài Hà, Trường Giang và Tiền Đường Giang. Trong đấy, diện tích thuộc lưu vực Hoài Hà là 66.900 km², diện tích thuộc lưu vực Trường Giang là 66.000 km², diện tích thuộc lưu vực Tiền Đường Giang là 6.500 km². Thảm Thực Vật Thảm thực vật rừng tại An Huy có sự chuyển tiếp rõ ràng giữa bắc và nam, phía bắc Hoài Hà thuộc đới rừng lá rộng ôn đới ấm có nhiều cây dương, hòe, đồng; phía nam Hoài Hà là khu vực thuộc đới rừng lá rộng hỗn giao thường xanh và rụng lá bắc cận nhiệt đới và đới rừng lá rộng thường xanh trung cận nhiệt đới với nhiều cây tùng, sam và trúc. Năm 2011, toàn An Huy có 4,4 triệu ha đất rừng, chiếm 31,7% diện tích toàn tỉnh, tổng diện tích rừng của An Huy là khoảng 3,6 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 26,06%. An Huy có 21 đơn vị cấp huyện đồi núi, đông đảo nằm tại vùng Đại Biệt Sơn ở Hoản Nam và Hoản Tây, tỷ lệ che phủ rừng trung bình ở những địa phương này lên tới trên 50%; 65 đơn vị cấp huyện đồng bằng dọc Trường Giang và Hoài Hà có tỷ lệ che phủ rừng bình quân là trên 15%; khu vực gò đồi và sườn đồi giữa Trường Giang và Hoài Hà có tỷ lệ che phủ rừng trên dưới 12%. Tỉnh An Huy có tài nguyên động thực vật vật hoang dã phong phú với nhiều loài khác nhau, An Huy có 4.245 loài thực vật có mạch, chiếm 14,2% số loài thực vật có mạch tại Trung Quốc, trong đó có 6 loài thực vật được bảo hộ quốc gia cấp 1 và 25 loài được bảo hộ quốc gia cấp 2. Toàn tỉnh An Huy có 44 bộ, 121 họ với 742 loài động vật có xương sống, chiếm 14,1% toàn quốc, trong đấy có 21 loài động vật được bảo hộ quốc gia cấp 1, 70 loài được bảo hộ quốc gia cấp 2, với những loài đặc biệt như cá sấu Dương Tử (Alligator sinensis) và cá heo Dương Tử (Lipotes vexillifer) tại lưu vực Trường Giang ở trung bộ An Huy. Nhân khẩu Năm 2011, tổng số nhân khẩu có hộ tịch tại An Huy là 68,759 triệu người, tăng 489.000 người so với năm trước; tổng số nhân khẩu thường trú của An Huy trong cùng năm là 59,68 triệu người, tăng cao 110.000 người so với năm trước đấy. Theo tổng điều tra nhân khẩu toàn quốc lần thứ 6 vào năm 2010, tại An Huy có sự hiện diện của tổng cộng 55 dân tộc thiểu số được công nhận tại Trung Quốc với tổng nhân khẩu là 395.600 người, chiếm 0,66% tổng nhân khẩu toàn tỉnh. Trong số những dân tộc thiểu số tại An Huy, người Hồi, người Mãn và người Xa là những dân tộc lớn nhất; riêng người Hồi chiếm tới 82,92% tổng nhân khẩu các dân tộc thiểu số tại An Huy. Những dân tộc thiểu số tại An Huy chủ yếu phân bố phân tán, toàn tỉnh vào năm 2011 có 9 hương dân tộc, một nông trường dân tộc, 135 thôn dân tộc. An Huy là tỉnh mất cân bằng giới tính, theo 1 nghiên cứu vào năm 2009 do British Medical Journal phát hành thì trong nhóm tuổi từ 1-4 tại An Huy, trung bình cứ 138 bé trai thì có 100 bé gái. Ngôn ngữ Quan thoại được nói ở bắc bộ và trung bộ An Huy, tức phía bắc Trường Giang, những ngôn ngữ ở bắc bộ An Huy được phân dòng là Quan thoại Trung Nguyên, cùng một hệ với những ngôn ngữ tại Hà Nam và Sơn Đông; các phương ngôn ở trung bộ An Huy được phân dòng là Quan thoại Giang Hoài, cùng một hệ với các phương ngôn tại trung bộ tỉnh Giang Tô lân cận. Các phương ngữ không thuộc Quan thoại được nói ở phía nam Trường Giang: các phương ngôn của tiếng Ngô được nói tại Tuyên Thành, song nó đang dần bị Quan thoại Giang Hoài thay thế; các phương ngôn của tiếng Cám được nói ở một vài huyện ở vùng tây nam giáp có tỉnh Giang Tây; và tiếng Huy được nói tại khoảng 10 huyện ở cực nam của An Huy. Tôn giáo Trên địa bàn An Huy, các tôn giáo phổ biến nhất là tôn giáo dân gian Trung Quốc, Phật giáo Hán và Đạo giáo, một số công trình tôn giáo nổi tiếng tại An Huy là tháp Chấn Phong tại An Khánh, hay Hóa Thành tự, Nhục Thân bảo điện, Bách Tuế cung, Thiên Đài tự trên Kim Hoa Sơn, một trong tứ đại danh sơn của Phật giáo Trung Quốc. Tại Hợp Phì có đền thờ Bao Công, An Huy cũng có những cộng đồng Hồi giáo và là một trong những nơi có nhiều tín hữu Ki-tô giáo nhất tại Đông Á. Kinh Tế Theo tính toán sơ bộ, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của An Huy năm 2011 là 1,51103 ngàn tỉ NDT, theo giá cả so sánh, tỷ lệ phát triển so với năm trước là 13,5%. Theo khu vực, khu vực một của nền kinh tế đạt giá trị 202,03 tỉ NDT, tăng trưởng 4% so với năm trước; khu vực 2 đạt trị giá 822,64 tỉ NDT, tăng trưởng 17,9% so với năm trước; khu vực ba đạt giá trị 486,36 tỉ NDT, tăng trưởng 10,5% so với năm trước đó. Tỷ lệ giữa ba khu vực trong nền kinh tế của An Huy đã thay đổi từ 14:52,1:33,9 của năm 2010 thành 13,4:54,4:32,2 vào năm 2011, trong đấy giá trị công nghiệp chiếm tỷ trọng 46,2% trong GDP, tăng trưởng 2,4% so với năm trước. Năng suất lao động toàn xã hội của tỉnh An Huy vào năm 2011 là 36.986 NDT/người, thu nhập bình quân đầu người đạt 25.340 NDT/người (tức khoảng 3.923 USD). Nông nghiệp Phần lớn tỉnh An Huy có lượng quang nhiệt lớn, lượng mưa phong phú, mưa và nắng trong cùng một thời kỳ, điều này có lợi cho sự phát triển của cây trồng, ngoài ra trung bộ và bắc bộ An Huy là vùng đồng bằng rộng lớn, đất đai màu mỡ. Năm 2011, diện tích trồng cây lương thực có hạt của An Huy là 6621,5 ngàn ha, trong đấy diện tích chuyên dụng trồng lúa mì chất lượng cao là 1.985 nghìn ha. Ngoài ra, diện tích trồng cây có dầu là 878,3 ngàn ha, diện tích trồng bông là 350,4 ngàn ha, diện tích trồng rau xanh là 790,3 ngàn ha. Năm 2010, tổng sản lượng lương thực của An Huy là 308,05 triệu tấn, là mức cao nhất so với các năm trước đó, sản lượng hạt có dầu đạt 2,276 triệu tấn, sản lượng bông đạt 316 ngàn tấn, sản lượng thuốc lá đạt 29 ngàn tấn, sản lượng trà đạt 83 ngàn tấn, sản lượng rau xanh đạt 21,374 triệu tấn và sản lượng hoa quả đạt 8,053 triệu tấn. Tính tới cuối năm 2011, số lợn chăn nuôi trên khu vực An Huy là 14,673 triệu con; số lợn nuôi xuất chuồng mỗi năm là 27,211 triệu con. Sản lượng các loại thịt chủ yếu vào năm 2011 là 3,718 triệu tấn, trong đấy lượng thịt lợn, thịt bò và thịt cừu là 2,651 triệu tấn, sản lượng trứng gia cầm đạt 1,197 triệu tấn, sản lượng sữa bò đạt 225 nghìn tấn, sản lượng thủy sản đạt 1,995 triệu tấn. Công nghiệp Sau khi cải cách mở cửa, ngành công nghiệp của tỉnh An Huy đã có những tiến bộ, hình thành được một hệ thống công nghiệp khá hoàn chỉnh, bao gồm cả lĩnh vực năng lượng và luyện kim. Chery Automobile Co., Ltd. là biểu tượng cho ngành công nghiệp ô tô của An Huy. Những công ty lớn nhất của tỉnh An Huy bao gồm Anhui Conch Cement Company, chuyên về phục vụ và phân phối xi măng, Guoyang Securities Co, một nhà cung cấp dịch vụ tài chính, và Ma’anshan Iron & Steel, một nhà sản xuất gang thép. Năm 2011, giá trị công nghiệp của An Huy đạt 706,17 tỷ NDT, đạt mức tăng trưởng 21,1% so với năm trước; trong đấy công nghiệp nhẹ phát triển 27,2% còn công nghiệp nặng phát triển 18,6%, tỷ lệ giữa hai ngành nghề này vào năm 2011 là 30,8:69,2. Các nhà máy sản xuất theo hình thức cổ phần hoặc vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả vốn Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan) tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng với tỷ lệ tương ứng là 22% và 20%. Bảy ngành công nghiệp hàng đầu của An Huy là thông tin điện tử, chế tác ô tô và thiết bị, nguyên liệu và vật liệu mới, năng lượng mới, thực phẩm và y dược, dệt may và áo quần, ngành công nghiệp dịch vụ hiện đại. Khoáng sản An Huy là một tỉnh lớn về tài nguyên khoáng sản với trữ lượng phong phú, tính đến cuối năm 2011, người ta đã phát hiện được 158 loại khoáng sản trên khu vực An Huy, trong đấy đã xác minh được trữ lượng của 126 loại khoáng sản với 5 loại khoáng sản năng lượng, 22 loại khoáng sản kim loại, 96 loại khoáng sản phi kim. Những vùng mỏ quan trọng của An Huy bao gồm sắt tại Mã An Sơn, than đá ở Hoài Nam và đồng tại Đồng Lăng. Giao thông Tuyến đường sắt Hệ thống đường sắt của tỉnh An Huy do cục đường sắt Thượng Hải quản lý, Năm 2011 tổng chiều dài mạng lưới đường sắt hoạt động tại An Huy là 3144 km. Những tuyến đường sắt chính trên khu vực An Huy là Kinh-Hỗ, Lũng-Hải, Kinh-Cửu, Thanh-Phụ, Phụ-Hoài, Hoài Nam, Tuyên-Hàng, Hoản-Cám, Ninh-Tây, Hỗ-Dong, những tuyến đường sắt cao tốc đi qua địa phận An Huy bao gồm đường sắt cao tốc Kinh-Hỗ, tuyến đường sắt liên thành Ninh-An, đường sắt vận chuyển hành khách Hợp-Bạng, đường sắt vận chuyển hành khách Thương-Hàng, đường sắt cao tốc Hợp-Vũ. An Huy có ba ga vận chuyển hành khách cấp một là ga Phụ Dương, ga Bạng Phụ và ga Hợp Phì; cùng với bốn ga vận chuyển hàng hóa cấp một là ga Phụ Dương Bắc, ga Bạng Phụ Đông, ga Vu Hồ Đông, ga Hoài Nam Tây. Các ga vận chuyển hành khách cấp 2 tại An Huy gồm ga Hợp Phì Nam, ga Vu Hồ, ga Hoài Nam, ga Túc Châu, ga Trừ Châu, ga Hoài Bắc, ga Mã An Sơn, ga Đồng Lăng, ga Bạc Châu, ga Hoàng Sơn, ga Nãng Sơn, ga Thủy Gia Hồ, ga Hợp Phì Tây, ga Tích Khê. Đường bộ Mật độ đường bộ tại An Huy đứng vào hàng bậc nhất trong số các tỉnh tại Trung Quốc, An Huy có 14 bến xe hành khách cấp địa khu, 65 bến xe hành khách cấp huyện và 20 bến tải hàng hóa. Tính tới cuối năm 2011, tổng chiều dài các tuyến công lộ tại An Huy là 149.534,65 km, mật độ là 107,27 km/100 km²; trong đấy có 3.009km đường cao tốc đã thông xe, có tới 99.98% số thôn hành chính tại An Huy đã thông công lộ. Tất cả các địa cấp thị tại An Huy đều đã thông đường cao tốc, nếu như đi theo các tuyến cao tốc này sẽ mất khoảng 6 tiếng để quá cảnh theo chiều bắc-nam của An Huy, và mất khoảng 3 tiếng nếu như quá cảnh theo chiều đông-tây. Tại An Huy có 3 cây cầu lớn vượt Trường Giang, đó là cầu Trường Giang An Khánh, cầu Trường Giang Vu Hồ và cầu Trường Giang Mã An Sơn; và có 12 cầu vượt Hoài Hà. Năm 2011, hệ thống đường bộ của An Huy đã thực hiện chuyên chở 1,79 tỷ lượt hành khách và 2,19 tỷ tấn hàng hóa. Đường thủy An Huy nằm trong lưu vực hai con sông lớn là Hoài Hà và Trường Giang nên có điều kiện tiện lợi để phát triển giao thông đường thủy. Tỉnh An Huy có những cảng cấp một là cảng Bạng Phụ, cảng Hoài Nam, cảng Phụ Dương, cảng Vu Hồ, cảng Mã An Sơn, cảng An Khánh; các cảng cấp hai là cảng Phượng Dương, cảng Phượng Đài, cảng Lợi Tân, cảng Đồng Lăng. Tính tới cuối năm 2011, tổng lý trình những tuyến đường sông có thể thông hành của An Huy là 5.596 km, trong đấy có 1.084 km các tuyến đường thủy cấp cao. Toàn tỉnh An Huy có khoảng 30.000 tàu bè hoạt động với tổng tải trọng là 26 triệu tấn. Năm 2011, hệ thống cảng của An Huy đã thông qua khối lượng hàng hóa lên tới 370 triệu tấn, có 388 nghìn container. Ở ven sông trên địa bàn An Huy có trên 380 bến có thể đón tàu trọng tải cấp 1000 tấn trở lên, số lượng cảng sông của An Huy là cao nhất trong các tỉnh miền Trung và miền Tây của Trung Quốc. Đường hàng không An Huy có ba sân bay hàng không dân dụng là sân bay quốc tế Lạc Cương Hợp Phì, sân bay Đồn Khê Hoàng Sơn và sân bay Phụ Dương, tuy nhiên tại An Khánh có một sân bay kết hợp cả quân sự lẫn dân dụng (sân bay Thiên Trụ Sơn An Khánh), dự tính sẽ xây dựng mới sây bay quốc tế Tân Kiều Hợp Phì và sân bay Cửu Hoa Sơn Trì Châu. Sân bay quốc tế Lạc Cương Hợp Phì là cửa khẩu hàng không cấp 1 quốc gia, có 400 chuyến bay mỗi tuần trên 46 đường bay. Năm 2011, hệ thống cảng hàng không của An Huy đã phục vụ 5,21 triệu lượt hành khách và 40.000 tấn hàng hóa. Văn Hóa Hoàng Mai hí có nguồn gốc vùng ven của An Khánh, là một loại hình hí khúc phổ biến trên khắp Trung Quốc. Hoàng Mai hí bao gồm những điệu ca vũ dân dã và có thể đã ra đời từ 200 năm trước hoặc thậm chí lâu hơn; loại hình này có truyền thống ca bằng ngôn ngữ Quan thoại tại An Khánh. Huy kịch là một loại hình nhạc kịch truyền thống bắt nguồn từ khu vực nói tiếng Huy ở nam bộ An Huy, nó là một trong những tiền thân của Kinh kịch. Vào thập niên 1950 Huy kịch đã hồi sinh sau một thời gian bị lãnh quên, Lư kịch là một loại hình nhạc kịch truyền thống xuất hiện khắp vùng trung bộ An Huy, từ đông sang tây. Ngoài ra còn có Hoa Cổ hí tại Phượng Dương, Tứ Châu hí ở Tứ huyện, Bang kịch tại Bạc Châu, Na hí tại Quý Trì Ẩm thực An Huy là một trong tám trường phái truyền thống chính của ẩm thực Trung Quốc, trường phái này kết hợp bí quyết nấu nướng từ bắc bộ An Huy, trung-nam An Huy và những khu vực nói tiếng Huy ở nam bộ An Huy; trong đấy những món ở khu vực Hoản Nam là đại biểu chủ yếu của ẩm thực An Huy, bắt nguồn từ bí quyết nấu nướng của khu vực Hoàng Sơn. Ẩm thực An Huy được biết đến với việc dùng những loại thú săn và thảo mộc hoang dại cả trên cạn lẫn dưới nước, chế biến bằng phương pháp rán lâu trên lửa, ninh và hấp thức ăn; cũng như cách thức chuẩn bị khá đơn giản. Đại diện tiêu biểu của ẩm thực An Huy là món vịt hồ lô , hỗn hợp Lý Hồng Chương... An Huy có nhiều sản phẩm truyền thống có liên quan đến thư pháp: Tuyên Châu và Huy Châu nức tiếng sở hữu sản phẩm giấy Tuyên và mực Huy, chúng được xem là các loại giấy và mực tốt nhất trong thư pháp Trung Quốc. Huyện Hấp nổi tiếng với sản phẩm nghiên Hấp, một trong những loại nghiên sử dụng để mài mực được ưa chuộng nhất. Du lịch Là một địa điểm du lịch đang nổi tiếng của du lịch Trung Quốc với các địa danh cực kỳ nổi tiếng như
Một vài thông tin khác: Thủ phủ và thành phố lớn nhất: Hợp Phì; Diện tích 139.400 km² (thứ 22); Dân số (2010): 59.500.510 (thứ thứ 8 TQ); Mật độ : 427/km² (thứ thứ 9 TQ); GDP (2011): 1,5 nghìn tỉ NDT (thứ 14); Tính trên đầu người: 25.340 NDT (thứ thứ 26) Tục cưới ở Ô Long Vân Nam Vùng núi Ô Long bên bờ sông Tân An thuộc Vân Nam với mấy làng chài, người dân ở đây biết bơi từ trong bụng mẹ. Các gia đình thường lấy vợ cho con trước Tết Nguyên đán chừng 10 ngày để đón năm mới và cô dâu mới, người dân ở đây có tục “ném cô dâu” trong lễ cưới. Thuyền cưới nhà trai kết hoa xanh đỏ áp vào thuyền nhà gái, lá xanh và dây hoa rừng trắng, ném cô dâu là một động tác vui vẻ, mạo hiểm và thượng võ. Chỉ cần không cẩn trọng là cô dâu và người ném có thể lăn xuống nước, đấy là điềm gở cho 2 gia đình và khiến cho ngày Tết mất vui. Khi cô dâu bị ném, một chàng trai là anh em hoặc có họ với cô sẽ ôm ngang lưng cô, một tay giữ phần mông, dùng sức ném cô dâu sang thuyền nhà trai trong tiếng hô “1,2,3…”. Người đỡ cô dâu ở bên nhà trai có thể là chú rể hoặc là một người đứng tuổi. Trong lễ ném cô dâu, thuyền nhà trai cho nổ 3 phát pháo, bên thuyền nhà gái nổ 2 phát pháo. Sau lễ ném cô dâu, mọi người đều trở về làng, đẩy ra cho cô dâu và chú rể một chiếc thuyền nhỏ, với đủ thức ăn dùng trong mấy ngày, cô dâu và chú rể bơi thuyền đến một nơi khuất nẻo, sống với nhau mấy ngày, họ phải trở về nhà với bố mẹ vào ngày 23 tháng Chạp để chuẩn bị Tết. Tục lệ cưới người Mán phía Nam Trung Quốc Phía Nam Trung Quốc gần Việt Nam, người Mán có tục lệ cưới hỏi kỳ lạ đó là tạ hôn và cưới chịu, các cô gái thường có 3,4 người tình. Nhưng một khi cô đã chính thức đính ước với người nào, cô sẽ cắt bỏ quan hệ với người khác. Điều lạ là đêm tân hôn, cô dâu không làm lễ động phòng với chú rể mà tới với người yêu cũ để tạ ơn và hưởng đêm xuân với anh ta. Cô gái phải đi tạ ơn mỗi người tình một đêm rồi trở về với chồng, khi trai gái kết hôn, nhà trai phải mang sang nhà gái nhiều của cải và vật phẩm, tổ chức yến tiệc linh đình thiết đãi cả bộ tộc. Nếu như nhà trai không có tiền thì nhà gái cho chịu, rồi sẽ phải trả, cho nên có đám cưới đến khi con cái đầy đàn mới trả hết nợ. Tục lệ cưới của dân tộc Mãn Những dân tộc người Trung Quốc thường tổ chức lễ cưới vào ban ngày, riêng dân tộc Mãn làm đám cưới vào ban đêm. Ngày cưới nhà gái dùng xe mui đưa cô dâu về nhà chồng nhà trai dùng chiếc xe trang trí để rước dâu. Hai bên gặp nhau giữa đường anh ruột hoặc anh họ cô dâu bế cô dâu từ mui xe của nhà gái lên xe hoa của nhà trai, dù giữa mùa hè nóng nực cô dâu cũng phải mặc áo kép, chỗ vai và đầu gối còn phải độn ít bông mang ý nghĩa đầy đặn và trung hậu. Khi xe cô dâu về tới nhà trai chú rể đứng đợi ở trước cổng và giương cung đặt tên, nhằm xe cô dâu vờ bắn 3 phát, sau đấy chú rể dẫn cô dâu đến trước bàn thờ đặt giữa sân, hai vợ chồng cùng vái trời đất. Tiếp đó chú rể sử dụng cán cân hoặc roi ngựa nâng cái khăn trùm đầu của cô dâu, đặt trên nóc nhà bạt đã cắm sẵn từ trước, có nghĩa là vừa lòng thuận ý. Lúc khều khăn trùm đầu chú rể dùng tay thoa đầu tóc của cô dâu, biểu tượng cho đôi vợ chồng kết tóc xe tơ, cô dâu bước qua một chậu lửa rồi lại nhảy qua yên ngựa rồi vào nhà bạt mặt hướng về nam làm lễ an tọa. Làm lễ xong cô dâu phải đi giày của mẹ chồng tỏ ý sẽ đi theo bước chân của mẹ chồng, tục lệ đó nói lên nguyện vọng tốt đẹp của lớp già mong con dâu mới cưới sẽ noi theo người trước ăn ở thuận hòa với hàng xóm, làng trên xóm dưới. Lễ tân hôn mang cỗ, cô dâu chú rể uống chén rượu tơ hồng, ăn bánh treo nửa chín nửa sống, có ý nghĩa mong muốn con cháu đầy đàn. Đêm tân hôn, trên bàn thờ có đôi nến thắp sáng suốt đêm, gian ngoài của nhà bạt có những người hát những khúc ca chúc mừng. Một số bạn bè hoặc láng giềng vãi các hạt đậu nành, đậu đen vào nhà, chúc vợ chồng mới làm ăn no đủ, dư dật, con đàn cháu lũ, lễ cưới kéo dài cho đến khuya. Tục cưới ở Lạc Dương Vùng Lạc Dương Trung Quốc có tục thử giường trước khi cưới, trước hôm làm lễ một ngày, nhà cửa các phòng phải gọn gàng sạch sẽ, nhất là buồng cô dâu chú rể. Chiếc giường được lưu ý đặc biệt, giường, đệm, chăn, gối phải làm mới. Đêm hôm đấy chú rể phải mời 1 người hoặc 2 chú bé tới ngủ cùng ở giường cưới, tục lệ này được gọi là thử giường lấy phước. Nếu không có em nhỏ thì mời bạn trai tới nhưng nhất thiết bạn trai đấy phải chưa có vợ, người được mời đến ngủ cùng chú rể trước ngày cưới cảm thấy rất vinh hạnh. Trung tâm lịch sử Ma Cao là một khu vực bao gồm hơn 20 địa điểm chứng kiến sự đồng hóa độc đáo cùng tồn tại của hai nền văn hóa Trung Quốc, Bồ Đào Nha ở Ma Cao, là một thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha, nó đại diện cho di sản kiến trúc của thành phố bao gồm những quảng trường, đường phố, nhà thờ, đền thờ hay nhà hát. Năm 2005, những địa điểm này được UNESCO công nhận là di sản thế giới thứ 31 ở Trung Quốc, nó được thể hiện bởi UNESCO như là "với các con phố lịch sử, khu dân cư, tôn giáo và những tòa nhà kiến trúc Bồ Đào Nha và Trung Quốc, trung tâm lịch sử Ma Cao cung cấp một chứng cứ duy nhất những tác động về thẩm mỹ, văn hóa, kiến trúc và công nghệ của cả phương Đông và Tây... nó là minh chứng cho một trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên và kéo dài lâu nhất giữa Trung Quốc và phương Tây, dựa trên sự sống động của thương mại quốc tế. Hầu hết các tòa nhà được sự quản lý của các phòng ban khác nhau thuộc sở hữu của đặc khu hành chính Ma Cao, Viện Văn hóa của chính quyền Ma Cao điều hành Nhà Mandarin, phế tích St. Paul, Tường thành cổ, Pháo đài Monte Forte và Guia (bao gồm cả ngọn hải đăng và nhà nguyện). Tòa nhà Leal Senado được quản lý bởi Hội đồng thành phố lâm thời của Ma Cao trong khi hai ngôi đền Ma Các và Na Tra lần lượt được điều hành bởi Hội đồng quản lý và ban quản lý, Trại lính Moorish được điều hành bởi Tòa nhà hành chính cảng Ma Cao. Phần còn lại chịu sự quản lý của Chủng viện và Giáo hội công giáo Ma Cao, riêng nhà thờ Mercy và nhà hát Dom Pedro V được quản lý bởi ban điều hành nhà thờ và hội đồng quản lý nhà hát. Những tòa nhà được bảo vệ bởi nhiều đạo luật khác nhau bao gồm cả Luật Cơ bản của đặc khu hành chính Ma Cao. Danh sách các địa điểm Vùng lõi 1: Miếu Ma Các: Được xây dựng năm 1488, ngôi đền được dành riêng cho thờ tự Thiên Hậu Thánh mẫu, được xem như vị thần bảo trợ của ngư phủ và người đi biển, tên thành phố Macao được xem là có nguồn gốc từ ngôi đền này
Vùng lõi 2 Là khu vực xung quanh Pháo đài Guia, một pháo đài thuộc địa thế kỷ 17, đây là một khu vực được bao quanh bởi vùng đệm là công viên xanh, bao quanh bởi những khu vực dân cư bao gồm pháo đài, một ngọn hải đăng và một nhà thờ nhỏ.
Du lịch Trung Quốc đến Trương Gia Giới thì không thể bỏ qua Khu thắng cảnh Vũ Lăng Nguyên (hay Võ Lăng Nguyên) nằm ở phía tây thành phố Trương Gia Giới, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc, bao gồm công viên rừng quốc gia Trương Gia Giới, thung lũng Tố Khê và núi Thiên Tử. Vào năm 1992 nơi đây đã được UNESCO ghi nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, tên gọi Vũ Lăng Nguyên có nguồn gốc từ bài thơ "Đào nguyên hành" của một nhà thơ đời Đường ca tụng vùng đất này, trong đấy có chữ "Vũ Lăng Nguyên". Từ đấy "Vũ Lăng Nguyên" được sử dụng để chỉ vùng đất này. Khu thắng cảnh này có diện tích 396 km², được tạo thành bởi ba khu bảo tồn tự nhiên: công viên rừng quốc gia Trương Gia Giới, vực Sở Khê và núi Thiên Tử gồm 560 thắng cảnh khác nhau. Vũ Lăng Nguyên thời viễn cổ là vùng đại dương mênh mông, thạch anh, nham cát trầm tích lại trên bờ biển. Trải qua quá trình vận động phức tạp của vỏ trái đất và tác dụng xâm thực xói mòn của nước đã hình thành nên một cảnh quan kỳ vĩ, một rừng ngọn núi lô nhô khoảnh 243 ngọn cao trên 1.000 m và 34 con suối dài trên 2.000 m, ở đây tập trung cả 5 sắc thái là kỳ vĩ, oai hùng, tĩnh mịch, hoang dã và tú lệ. Chính vì thế mà Vũ Lăng Nguyên được xem là 1 trong 10 thắng cảnh du lịch không thể bỏ qua tại Trung Quốc. Ở Vũ Lăng Nguyên có nhiều cảnh quan mà những nơi khác không có, đấy là vịnh Tân Đường trên núi Thiên Tử, nó là một chiếc hố tự nhiên lớn hình bán nguyệt với diện tích hơn 10m², ba mặt là vách núi dựng đứng, hố sâu không thấy đáy, rất bí ẩn. Công viên rừng quốc gia Trương Gia Giới với vẻ đẹp say đắm lòng người của những bãi đá có hình thù kỳ quái, nước trong xanh và rừng rậm. Vực Sở Khê có khe nước sâu, nước suối trong, hang động tự nhiên, núi Thiên Tử có địa thế núi hiểm trở với rừng rậm bao quanh. Rừng cây ở Vũ Lăng Nguyên có nhiều loại cây quý hiếm, các loại cây gỗ quý trên thế giới đều có mặt ở đây. Cây lấy gỗ tới 517 loài, nhiều gấp đôi những loại cây lấy gỗ ở châu Âu. Vũ Lăng Nguyên còn là một vườn động vật tự nhiên, đặc biệt là loại công có mào gà, có loài gà bối thủy lông đỏ vừa đi vừa bay trông rất kì quái và có nhiều loài chim muông địa phương đặc biệt chỉ có ở đây. Vũ Lăng Nguyên còn là nơi sinh sống của rất nhiều dân tộc thiểu số, với nhiều phong tục tập quán đặc sắc như hôn lễ của dân tộc Thổ Gia, lễ hội mồng tám tháng 4, hát đối,… Tị Thử Sơn Trang (nghĩa đen là "nông trại trên núi để tránh nóng") là một lâm viên nổi tiếng của đế vương thời xưa, toạ lạc ở quận Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc Trung Quốc. Nguyên tên của nó là Nhiệt Hà Hành Cung, còn người đời hay gọi là Thừa Đức Ly Cung (hành cung hay ly cung là cung điện dành cho vua nghỉ ngơi khi xuất du). Sơn Trang được xây dựng từ năm 1703 tới 1792, trải dài ba đời vua Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, diện tích gấp đôi Di Hoà Viên và gấp tám lần công viên Bắc Hải. Sơn Trang gồm 2 bộ phận lớn: khu cung điện và khu vườn cảnh; Khu cung điện bao gồm bốn kiến trúc có phong cách cổ phác và điển nhã: Chính Cung, Đông Cung, Tùng Hạc Trai, và Vạn Hác Tùng Phong. Khu vườn cảnh bao gồm hồ, núi, đất bằng. Sơn Trang có nhiều lâu đài điện các, am, miếu, chùa, đạo quán... Sơn Trang còn là nơi vua cùng quan lại hội ý việc nước, nên có thể gọi là một trung tâm chính trị thứ hai. Quần thể kiến trúc tôn giáo trong Sơn Trang quy tụ những loại hình nghệ thuật kiến trúc của những dân tộc Mãn, Hán, Mông, Tạng rất đặc sắc. Năm 1994, tổ chức Văn hoá Khoa học Giáo dục của Liên hợp Quốc (UNESCO) đã liệt Tị Thử Sơn Trang vào danh sách di sản văn hoá của thế giới. Ngoại Bát Miếu Ngoại Bát Miếu có nghĩa là 8 ngôi chùa lớn, nằm ở phía Đông Bắc của Tị Thử Sơn Trang ở Thừa Đức, các ngôi chùa này vây quanh Sơn Trang như 8 vì tinh tú vây lấy mặt trăng - biểu tượng cho sự đoàn kết và mối quan hệ hữu nghị giữa những dân tộc trong lãnh thổ Trung Hoa. Những ngôi chùa lộng lẫy với sự kết hợp giữa lối kiến trúc của người Hán và người Tây Tạng, ngôi chùa Phật lớn và đẹp nhất trong số 8 ngôi chùa ở đây là Miếu Phổ Đà Thừa Chi - được xây dựng vào năm 1767-1771 để mừng thọ vua Càn Long. Phần chính của chùa Phổ Đà là những tòa kiến trúc nằm kề nhau với màu đỏ và trắng, rất giống với kiến trúc của Cung điện Potala ở Lhasa, Tây Tạng. Tòa tháp lớn với các bức tường đỏ nằm ở giữa gọi là "tháp đỏ", còn "tháp trắng" có các bức tường màu trắng nằm ở phía Tây và Đông của chùa. Có hơn 1.000 bức tượng Phật lớn nhỏ đặt trong các hốc tường của chùa và nơi đây thường tổ chức những lễ hội văn hóa chính của địa phương. Cạnh đó có chùa Phổ Ninh ở phía Bắc của Sơn Trang, chùa được xây dựng vào năm 1775 mô phỏng theo kiến trúc của 1 ngôi chùa Tây Tạng kết hợp nét kiến trúc của Trung Hoa, Ấn Độ. Chùa nổi tiếng với bức tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn tay, ngàn mắt chạm khắc bằng gỗ tùng, bách, linh sam... cao nhất thế giới (cao hơn 22 mét, nặng 110 tấn). Ngoài 2 ngôi chùa nổi bật trên thì còn có 6 ngôi chùa khác của tỉnh Hà Bắc cũng trong danh sách di sản thế giới bao gồm: chùa Phổ Nhạc, chùa Tu Minh Phúc Thọ, chùa An Viễn, chùa Thù Tượng, chùa Phổ Nhân, chùa Phổ Hựu. Với các kiến trúc Phật giáo, văn hóa mang đậm chất lịch sử, cùng với Tị Thử Sơn Trang, Ngoại Bát Miếu đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1994. Bạn có thể tìm hiểu thêm về những sơn trang và các lâm viên nổi tiếng của Trung Quốc tại địa chỉ: https://vemaybaytrungquocgiare.weebly.com/kinh-nghiem-du-lich-trung-quoc
Tào phớ (hay còn gọi là phớ, tàu hủ/đậu hủ nước đường, đậu hoa, đậu pha) được làm từ đậu tương, tào phở có màu trắng ngà, vị bùi. Miếng đậu hũ mịn tan như thạch rau câu (không đóng thành khối chắc như thạch) là một trong những đồ ăn vặt ưa chuộng tại nhiều nước Châu Á. Tại Trung Quốc có nơi còn ăn cơm chan tào phớ, Đài Loan Tào phớ ở Đài Loan thường được dùng với những loại hạt như lạc, đỗ cùng nước đường có gừng hay hạt dẻ, vào mùa hè có thể cho thêm nước đá vào tào phớ Hong Kong Ở Hong Kong, tào phớ là món tráng miệng có thể mua ở siêu thị, nó được dùng với nước đường hay với gừng, có thể thêm mứt vừng đen, hay sữa dừa. Đây là một trong những món ăn đường phố hấp dẫn mà bạn phải thử nếu có dịp du lịch Hong Kong đấy nhé. Malaysia và Singapore Ở những quốc gia này, tào phớ được sử dụng với nước đường, thỉnh thoảng cho thêm hạt bạch quả. Ở Việt Nam Hà Nội Tào phớ ở Hà Nội thường được bán rong; hình ảnh người bán hàng gánh một đầu là thùng tào phớ, đầu kia là một chạn nhỏ rong ruổi khắp những con đường trở nên quen thuộc tại thành phố này. Tuy nhiên thời gian gần đây gánh hàng thường được thay thế bằng chiếc xe đạp cũng có thiết kế riêng để chở được hết đồ dùng. Tào phở thường được bắt gặp vào mùa hè do đây là một món đồ ăn "mát, giải nhiệt", một đầu quang gánh treo 1 chiếc chạn nhỏ đủ chứa những cái bát, với một bình nước đường và một xô nhỏ nước tráng, đầu kia là thùng đựng tào phớ. Thùng đựng tào phớ thường được làm bằng gỗ ghép đóng đai, tào phớ đựng trong thùng còn nóng hàng giờ. Người bán hớt từng lát tào phớ vào bát bằng một miếng tôn nhỏ, đồ dùng để hớt xưa thường gặp là một mảnh vỏ trai to, sáng và lấp lánh lớp xà cừ, nước đường pha vừa miệng, ướp hoa nhài tươi (thả trực tiếp vào bình chứa). Nước đường đấy chan ngập bát tào phớ, người ăn có thể húp một hơi, cũng có thể dùng thìa dầm nhẹ tào phớ ra rồi xúc ăn. Mùa hè có thể thêm đá vụn vào bát ăn cho mát, sau cái thùng gỗ, đồ hớt tào phớ cũng được thay thế bằng kim loại tuy nhiên tào phớ vẫn được ưa thích, người bán tào phớ rong có thể thường là nam giới với tiếng rao khoẻ và vang vọng. Huế, Đà Nẵng Tào phở ở Huế, Đà Nẵng và nhiều nơi ở miền Trung cũng được bán rong nhiều, tại những nơi này nó được gọi là đậu hủ, vị đậu hủ có khác với đậu hũ ở Hà Nội. Đậu hủ Huế nấu có cho thêm chút gừng giã dập hoặc xắt lát, thơm và cay, miếng đậu hủ "lỏng" hơn, thường không định hình. Ngày xưa người bán hàng thường gánh hàng cất trong chum, vại bằng đất nung màu nâu khoảng chừng 20 lít. Khi có khách hàng cần phục vụ họ dùng chiếc "muỗng" dẹt gần như phẳng để hớt đậu hủ thành từng lát mỏng ra bát, đậu hủ Huế có thể ăn rắc đường lên trên hoặc không cần đường. Sài Gòn Người trong miền Nam nhất là Sài Gòn thường gọi món này là tàu hủ hay tàu hủ nước đường, so với đậu hũ ở miền Bắc và đậu hủ miền Trung, tàu hủ đặc hơn, có thể có nước cốt dừa, thường được ăn nóng với nước đường, thêm chút gừng và nhiều nơi còn thêm những viên bột lọc nhỏ gọi là bánh lọt. Tàu hủ thường được bán trên những đòn gánh hàng rong hoặc xe đẩy với tiếng rao í ới. Người bán thường là phụ nữ với lịch trình đi qua nhiều ngõ hẻm, thỉnh thoảng tàu hủ được bán chung với chuối nước dừa, chè... Người bán thường có sẵn đòn và chén để múc cho khách hàng ăn tại chỗ, phương tiện múc tàu hủ cũng dẹt như ở miền Trung, tàu hủ có thể bán theo chén hay đóng gói để gặm mút như chè, tuy nhiên cách ăn phổ biến nhất vẫn là ăn bằng chén. Ngoài ra ở Sài Gòn còn có cách chế biến khác đó là tàu hủ dầm với nước đá, nước dừa... gọi là tàu hủ đá, tàu hủ đá thường được bán ở các quán chè. Món này ăn mát mùi dịu đặc biệt được giới học sinh rất ưa thích. Ở Sài Gòn tàu hủ bán được quanh năm suốt tháng, trở thành một trong những món ăn chơi dân dã phổ biến nhất. Cùng với việc tìm hiểu về món tào phớ tại các quốc gia châu Á qua bài viết trên đây hy vọng bạn sẽ có được những kinh nghiệm thú vị và đừng quên thưởng thức món ăn hấp dẫn này nếu như có dịp đến với các quốc gia châu Á này du lịch nhé.
Cùng điểm qua một vài địa danh du lịch nổi tiếng trên thế giới, để ngắm nhìn những cánh đồng oải hương đa màu sắc, trải dài bất tận. Dù du khách có là người tinh tế, yêu thích cảnh sắc thiên nhiên hay không thì chỉ cần nhìn thôi, bất kỳ ai trong chúng ta cũng ước mong một lần được bước “thật chậm, thật chậm” để cảm nhận mùi hương thơm mát của loài hoa này. Thung lũng Y Lê, Tân Cương (Trung Quốc) Có người nói rằng: “Chưa tới Tân Cương thì không biết Trung Quốc rộng, chưa tới Y Lê thì không biết Tân Cương đẹp”. Thật vây, thung lũng Y Lê đẹp nhờ có sự tô điểm dịu dàng từ sắc tím của các cánh đồng hoa oải hương. Từ năm 1964, giống hoa oải hương bắt đầu được đem từ Châu Âu về ươm trồng tại Tân Cương. Kể từ đấy đến nay thung lũng Y Lê đã có 46 năm lịch sử phát triển với nghề ươm trồng loài hoa tím biếc lãng mạn này. Diện tích trồng loại hoa này tại Y Lê lên tới 20.000ha, đưa địa danh này trở thành 1 trong 4 nơi có diện tích trồng hoa oải hương lớn nhất thế giới. Có người cho rằng hoa oải hương có ý nghĩa là sự nghi ngờ, nhưng người Trung Quốc lại nói hoa oải hương hàm chứa ý nghĩa “chờ đợi tình yêu”. Một phần vì ý nghĩa đấy, một phần vì khung cảnh lãng mạn của thung lũng bạt ngàn hoa mà cứ mỗi độ hè về đông đảo du khách lại muốn tới Y Lê để chìm mình trong sắc tím hoa oải hương, trông thật lãng mạn và kì bí, chiêm ngưỡng cảnh đẹp có một không hai của Tân Cương này. Thung lũng hoa Furano - Hokkaido (Nhật Bản) Cứ đến mùa hè, thung lũng Furano - Hokkaido - Nhật Bản lại ngập tràn các cánh đồng hoa oải hương ngào ngạt thơm và rực rỡ. Được biết, ban đầu những cánh đồng oải hương tại đây chỉ để phục vụ cho mục đích thương mại, chưng cất lấy tinh dầu tạo nước hoa. Loài hoa vốn có nguồn gốc từ Địa Trung Hải sở hữu hương thơm huyễn hoặc và tính năng khử trùng tốt, có thể giúp chữa lành vết thương, xua đuổi sâu bọ và là điềm lành may mắn này sau đấy đã được những người dân Hokkaido trồng thành các luống lớn làm cảnh đẹp. Mỗi độ xuân qua hè tới, các bông hoa nở bừng tràn căng nhựa sống đã không chỉ làm nở mặt người dân Hokkaido mà còn thu hút lượng du khách lớn từ khắp mọi nơi trên thế giới tới tham quan, nghỉ dưỡng. Thung lũng hoa này cũng trở thành biểu tượng đặc trưng của Furano, đô thị bình yên và mến khách. Thung lũng Dungeness Sequim (Mỹ) Đây được xem là "Provence của Bắc Mỹ" với trên 200 trăm năm kinh nghiệm trồng hoa oải hương. Khách du lịch mua vé máy bay đi Mỹ, Canada, nếu chưa có điều kiện đến Provence thì cũng có thể trải nghiệm những cánh đồng hoa oải hương tím lịm đến mê hoặc tại thung lũng Dungeness Sequim (bang Washington). Đặc trưng nơi đây còn có Festival hoa oải hương diễn ra vào tháng 6 hàng năm, một lễ hội nhộn nhịp với gam màu tím đặc trưng và chủ đạo cũng hàng loạt hoạt động cộng đồng đáng để du khách tới thăm một lần là nhớ mãi. Vùng Provence (Pháp) - xứ sở hoa oải hương Nói tới hoa oải hương nước Pháp, nhiều người sẽ nghĩ ngay tới Provence – một thành phố cổ kính nằm ở miền Đông Nam nước Pháp. Tới Provence vào mùa oải hương bạn có cảm giác như lạc vào chốn thần tiên đẹp mê hồn, những cánh đồng hoa oải hương tím ngắt này chạy dài xa tít tắp tận chân trời đã làm nên tên tuổi của Provence. Cũng nhờ hoa oải hương mà Provence được coi là biểu tượng cho những gì tinh túy, tự nhiên và trong lành nhất của nước Pháp. Thành phố Vũ Hán là thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc Trung Quốc, đây là thành phố đông dân nhất ở miền Trung Trung Quốc. Thành phố nằm ở ngã ba sông Dương Tử và sông Hán (Hán Thủy), dân số: 9.100.000 người (2006). Trong thập niên 1920, Vũ Hán là thủ đô của chính phủ cực tả do Uông Tinh Vệ lãnh đạo chống lại Tưởng Giới Thạch. Vùng thành phố bao gồm 3 khu: Vũ Xương, Hán Khẩu và Hán Dương. Tên gọi Vũ Hán lấy từ tên của ba khu này, trong đấy Vũ lấy từ tên của khu đầu tiên, còn Hán lấy từ tên của 2 khu sau. Vũ Hán là 1 thành phố cấp phó tỉnh, GDP của Vũ Hán là 396 tỷ nhân dân tệ với GDP bình quân đầu người khoảng 44.000 nhân dân tệ (tương đương 6.285 USD) trong năm 2008. Vũ Hán hiện đang thu hút khoảng 50 doanh nghiệp Pháp, chiếm hơn 1/3 của Pháp đầu tư tại Trung Quốc, nhiều nhất trong số những thành phố Trung Quốc. Vũ Hán là một trung tâm quan trọng về kinh tế, thương mại, tài chính, vận tải, công nghệ thông tin, và giáo dục ở miền trung Trung Quốc. Các ngành công nghiệp chủ yếu của nó bao gồm quang-điện tử, sản xuất oto, sản xuất thép, ngành dược phẩm, sinh học kỹ thuật, công nghiệp vật liệu mới và bảo vệ môi trường. Wuhan Iron & Steel (Group) Co. and Dongfeng-Citroen Automobile Co., Ltd có trụ sở tại thành phố. Hiện có 35 cơ sở giáo dục bậc đại học ở đây, trong đấy có Đại học Vũ Hán, Đại học công nghệ & khoa học Huazhong, thành phố có 3 khu phát triển cấp nhà nước, thành phố này xếp thứ 3 ở Trung Quốc về sức mạnh khoa học và công nghệ. Trong đấy Đại học Vũ hán vào mùa xuân với hoa anh đào nở rộ là địa điểm thu hút đông đảo khách du lịch mua vé máy bay giá rẻ đi Vũ Hán Trung Quốc ghé thăm nơi đây. 3000 năm trước đã có dân cư sinh sống ở đây, vào thời nhà Hán, Hàm Dương là 1 cảng nhộn nhịp. Thế kỷ 3, các thành được xây dựng để bảo vệ Hàm Dương (206) và Vũ Xương (223), năm 223 được xem là năm thành lập Vũ Hán. Năm 223, Hoàng Hạc lâu được xây dựng trên khu Vũ Xương của sông Dương Tử. Thôi Hiệu, một nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường, đã thăm ngôi làng và viết bài thơ "Hoàng Hạc Lâu" nổi tiếng vào thế kỷ 8, nhờ bài thơ này địa danh này đã lừng danh khắp Trung Quốc. thành phố từ lâu được xem là trung tâm nghệ thuật (thi họa) và học thuật. Dưới triều nhà Nguyên (Nguyên-Mông), 600 năm trước đây, Hán Khẩu là 1 trong 4 thương cảng sầm uất nhất Trung Quốc. |
Archives
April 2021
Categories
All
|