Du lịch Trung Quốc tìm hiểu Giang Tây, là một tỉnh nằm ở đông nam cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Giang Tây trải dài từ bờ Trường Giang ở phía bắc tới những khu vực cao hơn ở phía nam và phía đông, tỉnh có ranh giới giáp với An Huy ở phía bắc, Chiết Giang ở phía đông bắc, Phúc Kiến ở phía đông, Quảng Đông ở phía nam, Hồ Nam ở phía tây, và Hồ Bắc ở phía tây bắc. Tên gọi "Giang Tây" bắt nguồn từ tên một đạo dưới thời nhà Đường được lập vào năm 733, Giang Nam Tây đạo (đạo phía tây Giang Nam). Giản xưng của Giang Tây là Cám, theo tên sông Cám chảy từ phía nam lên phía bắc tỉnh rồi đổ vào Trường Giang. Giang Tây cũng được gọi là "Cám Bà đại địa" nghĩa là "vùng đất lớn của sông Cám và hồ Bà Dương". Giang Tây có núi bao quanh ba mặt, ở phía tây là các dãy núi Mạc Phụ, Cửu Lĩnh, và La Tiên; ở phía đông là những dãy núi Hoài Ngọc và Vũ Di; còn ở phía nam là những dãy núi Cửu Liên và Đại Dữu Lĩnh. Phần trung bộ và nam bộ của Giang Tây là các gò đồi và thung lũng nằm rải rác, núi và gò đồi chiếm đến 60% diện tích của tỉnh; trong khi bắc bộ thì bằng phẳng và có cao độ thấp, gọi là đồng bằng hồ Bà Dương. Đỉnh cao nhất Giang Tây là Hoàng Cương Sơn thuộc dãy núi Vũ Di, trên vùng ranh giới giáp với Phúc Kiến có cao độ 2.157 mét. Sông Cám là sông chính tại Giang Tây, sông dài 991 km và chảy từ nam lên bắc, Sông Cám đổ vào hồ Bà Dương, hồ nước ngọt lớn nhất tại Trung Quốc; nước trong hồ này lại đổ vào Trường Giang, con sông tạo thành ranh giới phía bắc của Giang Tây. Các sông quan trọng khác đổ vào hồ Bà Dương là sông Phủ, sông Tín, sông Bà và sông Tu, những hồ chứa nhân tạo trọng yếu của Giang Tây là hồ chứa Chá Lâm trên sông Tu ở phía tây bắc và hồ chứa Vạn An ở thượng du sông Cám. Giang Tây có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, với mùa đông ngắn, mát và ẩm cùng mùa hè rất nóng và ẩm ướt, nhiệt độ không khí trung bình là 3 đến 9 °C vào tháng 1 và 27 tới 30 °C vào tháng 7. Lượng giáng thủy hàng năm là 1.200 tới 1.900 mm, phần lớn bắt nguồn từ các cơn mưa lớn vào cuối mùa xuân và mùa hè. Tính tới năm 2007 Giang Tây đã thành lập được 137 khu bảo tàng thiên nhiên, bao gồm 6 khu bảo tàng cấp quốc gia, tổng diện tích là 9.852,3 km², chiếm 5,9% diện tích của tỉnh. Kinh Tế Theo kết quả sơ bộ năm 2010 tổng GDP của Giang Tây đạt 943,5 tỉ NDT, đứng thứ 19 cả nước, tính theo giá cả thì tăng trưởng 14% so với năm trước. Trong đó khu vực 1 của nền kinh tế đạt trị giá 106,04 tỉ NDT, tăng trưởng 4,8%, chiếm tỷ trọng 16,4% trong GDP; khu vực hai của nền kinh tế đạt trị giá 341,49 tỉ NDT, tăng trưởng 16,6%, chiếm tỷ trọng 52,7% trong GDP; khu vực ba của nền kinh tế đạt trị giá 200,5 tỉ NDT, tăng trưởng 10,1%, chiếm tỉ trọng 30,9%. Thu nhập bình quân của cư dân thành phố là 15.481 NDT, tăng trưởng 10,4%; thu nhập thuần của nông dân là 5.789 NDT, tăng trưởng 14,1%. Trong số các tỉnh thị, tốc độ phát triển kinh tế của Giang Tây ở mức trung bình, song tổng giá trị kinh tế thì khá nhỏ, nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân của tỉnh Giang Tây. Trong 29 năm từ 1979-2007, tổng GDP của Giang Tây đã tăng lên 62,86 lần, còn theo giá cả so sánh, tốc độ phát triển GDP bình quân hành năm là 9,4%, thấp hơn mức bình quân 9,8% của cả nước. So với những tỉnh ven biển lân cận là Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông, thì Giang Tây là một tỉnh nghèo. Lúa là cây trồng chủ đạo tại Giang Tây, những loại cây thường trồng khác là bông và cải dầu, chè, mao trúc, thông sam. Giang Tây dẫn đầu về sản xuất kim quất tại Trung Quốc, đặc biệt là ở thị xã Toại Xuyên, Giang Tây giàu tài nguyên khoáng sản, dẫn đầu trong số những tỉnh của Trung Quốc về trữ lượng đồng, volfram, vàng, bạc, urani, thori, tantali, niobi. Các trung tâm khai mỏ đáng chú ý là Đức Hưng (đồng) và Đại Dư (volfram), Gốm sứ Cảnh Đức Trấn nổi tiếng toàn quốc. Đặc biệt Vụ Nguyên biến thành thiên đường du lịch cho du khách vào mùa xuân với những ngọn núi đồng bằng hoa cải vàng, thu hút du khách cả trong và ngoài nước. Nơi đây trở thành một trong những địa điểm ngắm hoa đẹp nhất khi du lịch Trung Quốc vào mùa xuân. Nhân khẩu Tuyệt đại đa số cư dân Giang Tây là người Hán, chiếm trên 99,7% dân số, các phân nhóm Hán chính tại Giang Tây là người Cám và người Khách Gia. Những nhóm thiểu số có số lượng đáng nói là người Hồi, người Xa và người Choang, Hồ Nam và Giang Tây là 2 tỉnh mất cân bằng giới tính lớn nhất tại Trung Quốc, theo nghiên cứu của BMJ dựa theo số liệu năm 2005, tỷ lệ bé trai/bé gái trong nhóm tuổi từ 1-4 tại Giang Tây là trên 140/100. Cư dân Giang Tây chủ yếu nói tiếng Cám, một bộ phận nói tiếng Khách Gia, tiếng Huy, tiếng Ngô và Quan thoại. Tiếng Cám là một trong những phương ngữ lớn, số người sử dụng ước đạt 51 triệu, ngôn ngữ này được nói tại trên 60 huyện thị tại Giang Tây, phạm vi bao trùm Nam Xương, Cảnh Đức Trấn (khu thành phố), Bình Hương, Nghi Xuân, Phủ Châu và Cát An, tiếng Khách Gia được nói ở Cám Châu.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
April 2021
Categories
All
|